Báo cáo số: 17 /BC - UBND

Tổng kết công tác của UBND tỉnh Thái Nguyên, nhiệm kỳ 2004-2011

Tổng kết công tác của UBND tỉnh Thái Nguyên, nhiệm kỳ 2004-2011

 Đến hết năm 2010, tỉnh Thái Nguyên có diện tích tự nhiên là 3.541 km2, dân số trên 1,135 triệu người, có 9 đơn vị hành chính cấp huyện (7 huyện, 1 thành phố, 1 thị xã), gồm 181 đơn vị hành chính cấp cơ sở, trong đó có 144 xã, 24 phường, 13 thị trấn.
Sau 7 năm triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước, thực hiện nhiệm vụ của cơ quan chấp hành của HĐND tỉnh, cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh, trong điều kiện có những thuận lợi cơ bản do thành tựu hơn hai mươi năm đổi mới và hội nhập quốc tế còn có những khó khăn, thách thức như: khủng hoảng tài chính, thiên tai, dịch bệnh... Nhưng với sự nỗ lực cố gắng của cả hệ thống chính trị và nhân dân các dân tộc trên địa bàn, tỉnh ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị. Kinh tế - xã hội của tỉnh đã có bước phát triển mạnh mẽ, bộ mặt nông thôn và thành thị có nhiều đổi thay, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng được củng cố, dân chủ được phát huy; kinh tế đối ngoại ngày càng được mở rộng, thu hút đầu tư không ngừng tăng; cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch đáng kể, giải quyết ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.
Nhiệm kỳ hoạt động của UBND tỉnh khóa XI từ 2004-2011, kinh tế - xã hội của tỉnh có bước phát triển toàn diện, cơ bản đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội đề ra, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVII và Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng, tạo đà phát triển thực hiện kế hoạch 5 năm, giai đoạn 2011-2015, cụ thể như sau:

PHẦN I
TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN

I. Số lượng, cơ cấu và chất lượng của UBND
    - Tổ chức bộ máy của UBND được bố trí, sắp xếp và hoạt động theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Nghị định số 107/2004/NĐ-CP của Chính phủ. UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, do HĐND bầu ra.
- Việc xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy UBND các cấp và các cơ quan chuyên môn giúp việc đều đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước cấp trên và được kiện toàn kịp thời theo quy định của pháp luật. Về số lượng, cơ cấu, chất lượng UBND các cấp có thống kê tổng hợp so sánh:
(Chi tiết tại Phụ lục 1, 2, 3 kèm theo)
II. Tổ chức các cơ quan chuyên môn
    1. Tình hình thực hiện Nghị định số 13/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị định số 14/2004/NĐ-CP và Nghị định 12/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
    - UBND tỉnh có 19 cơ quan chuyên môn, trong đó đơn vị đặc thù là Ban dân tộc, Sở Ngoại vụ.
Ngoài ra, để thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực theo chỉ đạo của Trung ương và yêu cầu thực tiễn ở địa phương, UBND tỉnh có Ban quản lý các khu công nghiệp Thái Nguyên, Văn phòng BCĐ Phòng chống tham nhũng tỉnh, Ban Chỉ đạo bồi thường giải phóng mặt bằng tỉnh; Ban Quản lý khu di tích lịch sử sinh thái ATK, Ban Quản lý khu du lịch vùng hồ Núi Cốc và một số các trung tâm, tổ chức, đơn vị đầu mối trực thuộc các Sở, ngành của tỉnh.
- UBND của 09 đơn vị hành chính cấp huyện có 116 cơ quan chuyên môn, trong đó 08 đơn vị có 13 phòng, thị xã Sông Công có 12 phòng chuyên môn. Các phòng đặc thù gồm: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Kinh tế và hạ tầng (bố trí ở 7 huyện); Phòng Kinh tế, Phòng Quản lý đô thị (bố trí ở thị xã Sông Công và thành phố Thái Nguyên); Phòng Dân tộc (bố trí ở 7 huyện và thành phố Thái Nguyên).
Ngoài các cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước, UBND tỉnh đã quyết định thành lập một số đầu mối thực hiện chức năng dịch vụ công trực thuộc UBND cấp huyện gồm: Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Thái Nguyên, Ban bồi thường giải phóng mặt bằng, Ban quản lý các dự án đầu tư và xây dựng, Văn Phòng đăng ký đất đai tại các huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh.
2. Việc bố trí các chức danh cán bộ, công chức cấp xã theo Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP và Nghị định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ.
- Mỗi đơn vị cấp xã đều bố trí 11 chức danh cán bộ bầu cử và 7 chức danh công chức (Chỉ huy trưởng Quân sự, Trưởng Công an, Địa chính - Xây dựng, Tài Chính - Kế toán, Văn phòng - Thống kê, Tư pháp - Hộ tịch, Văn Hoá - Xã hội). Theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ, cấp xã toàn tỉnh giao 4.104 cán bộ, công chức; trong đó có 2.087 cán bộ và 2.017 công chức.
- Cán bộ cấp xã được tuyển dụng thông qua hình thức bầu cử theo quy định của Luật Tổ chức HDND và UBND, Điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Công chức cấp xã được tuyển dụng thông qua hình thức thi tuyển hoặc xét tuyển.
 III. Nhận xét, đánh giá
- Chất lượng chính trị của UBND luôn đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng; số lượng thành viên UBND được tăng cường và kiện toàn kịp thời khi có biến động.
+ Ở tỉnh đầu nhiệm kỳ đồng chí Chủ tịch UBND đồng thời là Phó Bí thư Tỉnh uỷ, hiện nay là Bí thư Tỉnh ủy. Các đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh là Ủy viên Ban Thường vụ hoặc Tỉnh ủy viên, giữa nhiệm kỳ Trung ương bổ sung luân chuyển 01 Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Các đồng chí Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự, Giám đốc Công an là thành viên UBND, đồng thời là Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ. Các Ủy viên UBND tỉnh khác là thủ trưởng các Sở, ngành của tỉnh.
+ Ở cấp huyện cơ cấu cơ bản bố trí như tỉnh và được Trung ương, Tỉnh ủy, UBND tỉnh bổ sung thêm 2 Phó Chủ tịch UBND, trong đó 01 ở huyện Định Hóa và 01 ở huyện Võ Nhai để thực hiện công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo.
+ Ở cấp xã bố trí đồng chí Chủ tịch UBND đồng thời là Phó Bí thư, các đồng chí Trưởng Công an, Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cơ cấu là thành viên UBND cấp xã, là đảng uỷ viên. Toàn tỉnh thí điểm 3 đơn vị cấp xã Bí thư cấp uỷ đồng thời là Chủ tịch UBND cấp xã.
- Tổ chức bộ máy UBND các cấp của tỉnh thực hiện theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và quy định của Chính phủ. Thực hiện các nghị định của Chính phủ, UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh phê chuẩn cơ cấu, số lượng và quyết định tổ chức lại các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện theo đúng quy định của Chính phủ và đặc thù ở địa phương. Các cơ quan chuyên môn và công chức cấp xã đã thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo đúng hướng dẫn của Trung ương và hoạt động thực tiễn ở địa phương.
Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ thực hiện chia tách, thành lập mới các cơ quan chuyên môn đã làm biến động về công tác cán bộ, tăng biên chế hành chính, biên chế phục vụ và chi phí xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, các trang thiết bị làm việc. Để nâng cao hiệu quả hoạt động cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu làm rõ chế độ trách nhiệm của tập thể và từng cá nhân trong cơ cấu tổ chức bộ máy; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tránh chồng chéo trùng lặp; xây dựng quy định về phân loại cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện, xác định cơ cấu công chức để làm căn cứ giao biên chế; xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, công chức để làm căn cứ tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt; xây dựng nội dung và quy trình đánh giá cán bộ, công chức.
- Trong quá trình thành lập tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn của UBND cần thực hiện theo hướng cơ quan quản lý đa ngành, đa lĩnh vực nhằm tăng trách nhiệm và giảm thiểu mối quan hệ phối hợp nhiều cơ quan khác nhau khi giải quyết một công việc. Những công việc cần sự phối hợp của nhiều cơ quan thì phải giao cho một cơ quan có chức năng, nhiệm vụ giữ vai trò chủ đạo về công việc đó chủ trì và chịu trách nhiệm tham mưu chính cho HĐND và UBND xem xét quyết định.
Trong quá trình hoạt động đã xác định, làm rõ chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước với quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo tạo quyền tự chủ, tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Các cơ quan quản lý nhà nước chỉ thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật quy định; đặc biệt là định hướng cho các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh, vừa phát triển được kinh tế, vừa giải quyết được vấn đề xã hội, đồng thời tạo cơ hội cho các doanh nghiệp có điều kiện tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá ở trong nước và ngoài nước. Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính để thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, tỉnh Thái Nguyên có 973 đơn vị sự nghiệp thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công; trong đó trực thuộc UBND tỉnh có 7 đơn vị; trực thuộc UBND cấp huyện và các Sở, ngành 966 đơn vị. Thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực sự nghiệp, cơ bản các đơn vị hoạt động có hiệu quả, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện chức năng, nhiệm vụ và tài chính.
Trên địa bàn có 57 hội, trong đó có 43 hội hoạt động trên phạm vi toàn tỉnh, 14 hội hoạt động phạm vi đơn vị cấp huyện; số hội được hỗ trợ kinh phí hoạt động là 23. Nhìn chung các hội hoạt động theo đúng điều lệ quy định, đã đem lại những kết quả có tác dụng khích lệ, động viên tinh thần và vật chất cho các hội viên, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.

Phần II
HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN

I. Công tác chỉ đạo điều hành
- Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, bên cạnh những thuận lợi và những khó khăn, thách thức, quán triệt các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các Nghị quyết Tỉnh uỷ, HĐND, nắm chắc nhiệm vụ chính trị của địa phương, UBND tỉnh đã xây dựng kế hoạch cho cả nhiệm kỳ và chương trình công tác cụ thể của từng năm, xác định rõ các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội, đề ra phương hướng, giải pháp chủ yếu trên từng lĩnh vực; xây dựng quy chế làm việc, quy chế phối hợp; tập trung xây dựng và chỉ đạo có hiệu quả nhiều đề án, dự án trọng điểm và thu được kết quả quan trọng trên nhiều ngành, nhiều lĩnh vực ở địa phương.
Đã xác định chủ đề, giải pháp trọng tâm hàng năm và tiếp tục đổi mới trong chỉ đạo, điều hành với tư duy hành động "Năng động, sáng tạo, sát tình hình, hiệu quả"; nhiệm vụ, giải pháp “năm đẩy, bốn quản, ba chống”, với phương châm “Ba thân thiện"( ) như:
 Năm 2005 là ‘‘tập trung phát triển công nghiệp, doanh nghiệp”;
 Năm 2006 là “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng các cấp’’;
Năm 2007 là năm Du lịch “Về thủ đô gió ngàn - Chiến khu Việt Bắc”;
Năm 2008 là ‘‘Cải cách hành chính, thu hút đầu tư để phát triển’’;
Năm 2009 là “Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó lấy hạ tầng giao thông là khâu đột phá...’’;
Năm 2010 là “Tập trung phát triển kinh tế công nghiệp và làng nghề. Xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại, du lịch, dịch vụ là khâu đột phá. Tiếp tục nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, đẩy mạnh công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và tiến độ các công trình, dự án trọng điểm. Chỉ đạo, tổ chức thực hiện thành công Đại hội Đảng các cấp và Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII”.
Năm 2011 là: “Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết của Đại hội đảng các cấp; tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, chú trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn; đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, các khu du lịch dịch vụ, tổ chức thành công Festival trà quốc tế, từng bước hình thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc Thủ đô Hà Nội”.
- Theo phân cấp của Chính phủ và thẩm quyền, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực, là công cụ hữu hiệu, có tác động quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân ở địa phương. Đồng thời các cấp, các ngành đã tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời uốn nắn những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
- Từ năm 2004 đến nay, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành 759 văn bản quy phạm pháp luật và nhiều văn bản hành chính để chỉ đạo, điều hành các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Công tác tuyên truyền và bảo đảm thi hành pháp luật luôn được các cấp, các ngành quan tâm, coi trọng. Các phương tiện thông tin đại chúng, các ngành đoàn thể, các cơ quan, đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được giao luôn chủ động tuyên truyền và theo dõi, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, đảm bảo pháp luật được thi hành nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực.
- Tuy nhiên, công tác chỉ đạo điều hành cũng gặp một số khó khăn vướng mắc: một số quy định pháp luật của nhà nước thiếu đồng bộ, kịp thời; trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; việc chỉ đạo của một số cấp, ngành chưa quyết liệt trên một số lĩnh vực như: tiến độ lập, quản lý quy hoạch chung, quy hoạch xây dựng, triển khai các dự án, công trình xây dựng cơ bản, chương trình mục tiêu quốc gia còn chậm; công tác giải phóng mặt bằng còn gặp khó khăn, phức tạp; khả năng nguồn lực huy động còn hạn chế so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
II. Kết quả thực hiện trên một số lĩnh vực
1. Lĩnh vực kinh tế
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, nền kinh tế của tỉnh về cơ bản vẫn duy trì được nhịp độ phát triển ở tốc độ khá, với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2004-2010 là 10,8%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. So với đầu nhiệm kỳ, tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 38,50% lên 41,54%; khu vực dịch vụ tăng từ 34,64% lên 36,74%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 26,87% xuống còn 21,73%.
- Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định) thực hiện năm 2004 là 4.500 tỷ đồng, năm 2010 là 12.200 tỷ đồng, tăng 2,7 lần so với đầu nhiệm kỳ.
- Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản (theo giá cố định) thực hiện năm 2004 là 1.723,2 tỷ đồng, năm 2010 là 2.452,5 tỷ đồng, tăng 1,4 lần so với đầu nhiệm kỳ. Sản lượng lương thực có hạt thực hiện năm 2004 là 368,9 nghìn tấn, năm 2010 là 415 nghìn tấn.
- Giá trị xuất khẩu trên địa bàn thực hiện năm 2004 là 29,22 triệu USD, năm 2010 là 94,13 triệu USD, tăng 3,2 lần so với đầu nhiệm kỳ.
- Thu ngân sách trên địa bàn có chuyển biến tích cực, thực hiện năm 2004 là 573,4 tỷ đồng, năm 2010 đạt 2.700,44 tỷ đồng, tăng gấp 4,7 lần so với đầu nhiệm kỳ.
- GDP bình quân đầu người thực hiện năm 2004 là 5 triệu đồng, năm 2010 ước đạt 17,5 triệu đồng, tăng gấp 3,5 lần so với đầu nhiệm kỳ. Vốn đầu tư toàn xã hội tiếp tục duy trì ở mức cao. Các chỉ tiêu kinh tế đều đạt và vượt so với kế hoạch đã đề ra. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường.
- Công tác quy hoạch phát triển được quan tâm, đã quy hoạch được 7 khu công nghiệp tập trung, 28 cụm công nghiệp, tạo tiền đề phân bổ lại lực lượng sản xuất trên địa bàn. Tỉnh đã xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp phát triển, đến nay có trên 10.000 cơ sở sản xuất công nghiệp, tăng 21% so với đầu nhiệm kỳ.
- Hoạt động thương mại, dịch vụ đã có nhiều tiến bộ và đạt mức tăng trưởng khá. Dịch vụ bưu chính, viễn thông tiếp tục được đầu tư, nâng cấp và mở rộng từng bước đáp ứng được nhu cầu thông tin của nhân dân. Dịch vụ du lịch từng bước được phát triển với nhiều loại hình, mỗi năm thu hút trên 1 triệu lượt người trong và ngoài nước đến Thái Nguyên. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, làng nghề được quan tâm đầu tư phát triển; trên địa bàn tỉnh hiện có trên 2.600 doanh nghiệp, gần 400 hợp tác xã và gần 50.000 cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể đang hoạt động; công tác quản lý khai thác tài nguyên, khoáng sản và môi trường được tăng cường và theo quy định.
- Lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản được quan tâm, trú trọng. Diện tích trồng rừng, trồng màu vượt chỉ tiêu kế hoạch, đạt năng suất, chất lượng. Tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng dần trong cơ cấu nội bộ ngành. Công tác phòng chống dịch bệnh, cúm gia cầm, chống bão lụt, bảo vệ rừng được triển khai kịp thời và có hiệu quả.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, bình quân hàng năm huy động trên 6000 tỷ đồng đầu tư cho phát triển hệ thống giao thông, thuỷ lợi lưới điện, cấp thoát nước, các công trình thương mại, dịch vụ và hạ tầng trong lĩnh vực văn hoá - xã hội.
2. Lĩnh vực văn hoá - xã hội.
 Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Y tế, thể dục - thể thao, văn hoá - thông tin, phát thanh, truyền hình, khoa học - công nghệ, môi trường... tiếp tục có nhiều chuyển biến và tiến bộ, đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh nhìn chung được ổn định và cải thiện đáng kể.
- Về giáo dục và đào tạo: quan tâm phát triển sự nghiệp giáo dục cả về quy mô và chất lượng, đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất. Hầu hết các chỉ tiêu giáo dục thực hiện đạt và vượt kế hoạch đề ra. Cuộc vận động "Hai không" đã có tác dụng tích cực, làm chuyển biến nhận thức và kết quả đánh giá chất lượng của các cấp học, bậc học. Làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra để duy trì nền nếp, kỷ cương dạy và học. Đẩy mạnh công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia; toàn tỉnh đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập Trung học cơ sở, đang tiến tới đạt chuẩn phổ cập Trung học.
- Về văn hoá, thông tin truyền thông đã bám sát được các nhiệm vụ trọng tâm, tổ chức nhiều hoạt động thiết thực. Các hoạt động kỷ niệm ngày lễ lớn, các phong trào thi đua đã góp phần tuyên truyền chủ trương, đường lối của đảng, pháp luật của nhà nước, nhiệm vụ chính trị ở địa phương tới đông đảo nhân dân trong tỉnh. Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động và dịch vụ văn hoá trên địa bàn được duy trì thường xuyên. Các hoạt động thể dục - thể thao diễn ra sôi nổi thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng được duy trì và ngày càng mở rộng.
- Lĩnh vực lao động việc làm, thực hiện chế độ, chính sách xã hội có nhiều tiến bộ, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động; tập trung phát triển mạng lưới, quy mô, nâng cao chất lượng dạy nghề, chú trọng đào tạo nghề cho nông thôn; thực hiện chính sách người có công, "đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn"; thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra an toàn lao động; tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh việc thực hiện Đề án "xoá nhà tranh tre dột nát cho hộ nghèo" và chính sách xoá đói, giảm nghèo.
- Lĩnh vực y tế: các chương trình y tế quốc gia được triển khai tốt; công tác khám chữa bệnh cơ bản đáp ứng được nhu cầu của nhân dân và các hộ nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi; công tác quản lý nhà nước về y tế được trú trọng, xử lý kịp thời các sai phạm, tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở. Công tác dân số, gia đình và trẻ em đã thực hiện thường xuyên.
Sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ quyền lợi của trẻ em và phụ nữ được quan tâm thường xuyên, đã thực hiện có kết quả các chương trình, dự án hỗ trợ chị em phụ nữ xoá đói giảm nghèo, xây dựng và phát triển kinh tế hộ gia đình, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy vai trò trong các lĩnh vực đời sống chính trị, xã hội; quan tâm chỉ đạo các cấp, các ngành trong tỉnh phối hợp thực hiện tốt các quy định trong Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, đẩy mạnh các hoạt động khuyến khích phát triển tài năng trẻ em và hỗ trợ giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, khuyết tật.
- Công tác dân tộc tập trung vào thực hiện chế độ, chính sách hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; triển khai thực hiện chương trình 134, chương trình 135 của Chính phủ. Công tác tôn giáo có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; kịp thời giải quyết những vướng mắc và chấn chỉnh các hoạt động tôn giáo trái phép; tổ chức tập huấn quản lý nhà nước về tôn giáo cho cán bộ làm công tác tôn giáo ở địa phương.
3. Lĩnh vực nội chính và trật tự an toàn xã hội
- An ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được giữ vững và tăng cường. Thực hiện chủ trương kết hợp chặt chẽ công tác bảo đảm an ninh, quốc phòng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng công tác tổ chức và chất lượng huấn luyện, xây dựng lực lượng vũ trang từng bước tiến lên chính quy, hiện đại. Xây dựng kế hoạch phòng thủ sẵn sàng chiến đấu, cứu hộ, cứu nạn, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, tuyển quân hàng năm.
- Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự, ma tuý và các tệ nạn xã hội được tăng cường, kết hợp vai trò của lực lượng chuyên môn với việc động viên, tổ chức sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân, góp phần hạn chế sự phát triển của các tệ nạn trong tình hình xã hội còn nhiều diễn biến phức tạp hiện nay. Cùng với việc tăng cường chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp, chủ động nắm chắc tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn, đẩy mạnh công tác an ninh khu vực gắn với phong trào xây dựng khối đoàn kết cơ sở, đã duy trì tốt sự ổn định trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh.
- Về công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân đã được các cấp chính quyền quan tâm thực hiện. Các cơ quan, đơn vị đã bố trí trụ sở (phòng tiếp dân), phân công cán bộ thường trực tiếp dân; xây dựng quy chế tiếp dân; thông báo công khai việc tiếp dân của cơ quan, đơn vị để nhân dân biết.
Từ năm 2004 đến năm 2010, phòng tiếp dân của tỉnh và các cơ quan chuyên môn đã tiếp nhận 26.456 lượt người đến khiếu nại, tố cáo; đã tiếp nhận 8.351 đơn thư, trong đó số đơn thư thuộc thẩm quyền giải quyết là 3.280, đã giải quyết xong 3.037, đạt  92,5%. Nhìn chung tình hình khiếu kiện của công dân vẫn diễn ra phức tạp, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực đất đai, giải phóng mặt bằng và thực hiện chế độ, chính sách. UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành thành lập đoàn công tác liên ngành tiếp tục rà soát, xem xét các vụ tồn đọng để tập trung chỉ đạo giải quyết.
- Công tác chỉ đạo và kết quả thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được các cấp, các ngành quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Gắn phòng chống tham nhũng, lãng phí với xây dựng chỉnh đốn đảng, củng cố hệ thống chính quyền các cấp. Xây dựng một số thể chế quy định nhằm quản lý chặt chẽ các lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực; phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm về tham nhũng, lãng phí.
4. Lĩnh vực xây dựng chính quyền
- Tập trung chỉ đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2009 và cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII, đảm bảo thực sự dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiêm và thực sự là ngày hội của toàn dân.
- Tổ chức bồi dưỡng đại biểu HĐND các cấp sau cuộc bầu cử và bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và kỹ năng giải quyết công việc đối với từng đối tượng cán bộ, công chức theo chỉ đạo của Chính phủ.
- Chỉ đạo UBND các cấp, các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt quy chế làm việc, quy chế phối hợp, lập chương trình công tác, xác định những nhiệm vụ trong tâm để tập trung chỉ đạo trong mỗi thời điểm, trong từng năm và cả nhiệm kỳ. Kịp thời kiện toàn các chức danh, sắp xếp tổ chức bộ máy, cán bộ các cấp theo Nghị định của Chính phủ; nghiên cứu các cơ quan chuyên môn đặc thù trình HĐND tỉnh xem xét quyết định thành lập theo quy định. Thực hiện tuyển dụng, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, chuyển xếp lương cũ sang lương mới và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức theo quy định.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về địa giới hành chính, trong đó tập trung vào giải quyết tranh chấp đất đai và lập hồ sơ điều chỉnh địa giới hành chính một số đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Công tác xây dựng chính quyền cơ sở, tổ chức và hoạt động của xóm, tổ dân phố; xây dựng chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở.
5. Tổ chức chỉ đạo và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
Tích cực chỉ đạo xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cả 3 loại hình cơ sở xã, phường, thị trấn, cơ quan và doanh nghiệp đạt kết quả thiết thực; xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị 18 của Thủ tướng Chính phủ về công tác dân vận chính quyền; tăng cường công tác kiểm tra, ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, công chức, tạo lòng tin của nhân dân đối với chính quyền.
6. Về công tác thông tin, báo cáo, thực hiện kỷ cương hành chính
Công tác thông tin giữa các cấp, các ngành luôn được coi trọng, nhiều cơ quan đã nối mạng thông tin nội bộ, mạng internet, xây dựng trang Web. Chế độ báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất được thực hiện nghiêm túc theo quy định. Các cơ quan thông tin đại chúng đã kịp thời đưa tin các hoạt động chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Ủy ban nhân dân.
(kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu giai đoạn 2004 - 2010 của  tỉnh Thái Nguyên có Phụ lục 4 chi tiết đính kèm)
III. Thực hiện quy chế làm việc và công tác cải cách hành chính
1. Công tác cải cách hành chính.
Công tác cải cách hành chính của tỉnh đã được triển khai toàn diện trên các nội dung là cải cách thể chế hành chính, cải cách bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công và đã thu được kết quả nhất định, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương trong những năm qua. UBND tỉnh đã xây dựng đề án tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính đã được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và HĐND tỉnh thông qua để chỉ đạo triển khai trong giai đoạn 2006-2010. Cấp uỷ, chính quyền địa phương đều xác định và chỉ đạo quyết liệt công tác cách hành chính để thu hút đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, doanh nghiệp và công dân.
Các cấp, các ngành tiến hành rà soát các văn bản hành chính và rà soát thủ tục hành chính để có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật. Tổng số văn bản được kiểm tra, rà soát là 1.007 văn bản. Công bố Bộ thủ tục hành chính áp dụng tại 18 Sở, ngành, với 933 thủ tục hành chính. Áp dụng tại UBND cấp huyện là 179 thủ tục hành chính, tại UBND cấp xã 103 thủ tục hành chính. Thực hiện rà soát đối với 1.210 thủ tục hành chính, trong đó đã thực thi và kiến nghị thực thi đơn giản hóa đối với 438 thủ tục hành chính.
Các cấp, các ngành đã thường xuyên đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, tổ chức thực hiện các công việc theo quy trình, thủ tục và cơ chế “một cửa, một cửa liên thông”. Đến nay đã có 15/19 sở, ngành; 9/9 UBND cấp huyện; 181/181 UBND cấp xã đã thực hiện việc tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả theo cơ chế một cửa, đã đưa 50% số các công việc liên quan trực tiếp đến tổ chức, công dân vào thực hiện cơ chế một cửa; một số cơ quan, đơn vị đã đưa trên 80% thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết thực hiện cơ chế một cửa.
Tuy nhiên so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới công tác cải cách hành chính ở tỉnh Thái Nguyên triển khai còn chậm, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân và doanh nghiệp. Việc thực hiện cơ chế một cửa ở nhiều nơi chưa thực chất, còn hình thức, còn biểu hiện nhũng nhiễu, phiền hà, tiêu cực. Thiếu sự hợp tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của các quyết định hành chính.
2. Thực hiện phân cấp giữa Trung ương với địa phương; giữa các cấp chính quyền địa phương
Thực hiện Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cấp chính quyền của tỉnh Thái Nguyên đã cơ bản triển khai thực hiện theo phân cấp của Chính phủ.
Trong lĩnh vực quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển; quản lý ngân sách nhà nước; quản lý đất đai; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quản lý các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; quản lý về tổ chức bộ máy và cán bộ, UBND các cấp quyết định theo thẩm quyền hoặc trình HĐND cùng cấp xem xét thông qua hoặc quyết định theo thẩm quyền để UBND tổ chức chỉ đạo, điều hành theo phân cấp của Chính phủ.
Tuy nhiên việc triển khai thực hiện phân cấp một số lĩnh vực còn chậm như: tổ chức bộ máy và cán bộ; quản lý các hoạt động sự nghiệp và dịch vụ công.
3. Về xây dựng và thực hiện quy chế làm việc
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, UBND tỉnh đã xây dựng, ban hành và hoạt động theo quy chế làm việc trên cơ sở cụ thể hoá Quy chế mẫu của Thủ tướng Chính phủ. Nội dung Quy chế đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc, phạm vi giải quyết và điều hành công việc của UBND, của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Uỷ viên UBND trong các lĩnh vực được phân công; mối quan hệ và sự phối hợp công tác giữa HĐND, UBND, UBMTTQ và các Đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương. Về cơ bản UBND và các thành viên UBND đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND, theo quy định của pháp luật, cũng như những nhiệm vụ phát sinh trong chỉ đạo, điều hành cụ thể ở địa phương. 
UBND tỉnh đã thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo định kỳ, đột xuất lên Ủy Ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ. Hàng tuần, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch UBND đã tổ chức giao ban vào ngày đầu tuần và họp UBND vào tuần đầu hàng tháng (không kể các phiên họp đột xuất). Văn phòng UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thường xuyên đảm bảo đầy đủ các tài liệu, báo cáo phục vụ các phiên họp và giao ban tuần của UBND tỉnh.
4. Về mối quan hệ phối hợp của UBND với Cấp uỷ, Thường trực HĐND, các đoàn thể chính trị - xã hội và với các cơ quan cấp trên.
Quán triệt các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được cụ thể hoá bằng các Nghị quyết của Tỉnh uỷ và Nghị quyết HĐND tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo triển khai thành các chương trình, mục tiêu công tác hàng năm giao cho các cấp, các ngành tham mưu thực hiện. Trong quá trình thực hiện, thường xuyên bảo đảm chế độ thông tin, báo cáo và xin ý kiến lãnh đạo của Tỉnh ủy, của các bộ, ngành Trung ương và Chính phủ.
 UBND tỉnh luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ với Thường trực cấp uỷ, Thường trực HĐND, thực hiện chế độ giao ban định kỳ hàng tháng và đột xuất, đảm bảo mọi vấn đề quan trọng phát sinh đều có sự lãnh đạo và chỉ đạo của cấp uỷ cùng cấp. Tất cả những tờ trình, đề án, kế hoạch quan trọng liên quan đến những vấn đề kinh tế - xã hội lớn của địa phương, UBND xin ý kiến Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh trước khi trình HĐND cùng cấp xem xét quyết định hoặc thông qua làm căn cứ triển khai thực hiện.
UBND luôn giữ mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban MTTQ và các tổ chức Đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, động viên được các nguồn lực trong nhân dân, khai thác tiềm năng, đẩy mạnh các phong trào thi đua lao động, sản xuất, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, xoá đói giảm nghèo, phòng chống các tệ nạn xã hội .v.v.
Các phiên họp định kỳ hàng tháng của UBND đều mời Thường trực HĐND, Uỷ ban MTTQ, các tổ chức đoàn thể trên địa bàn tham dự. Những phiên họp có liên quan có thể mời đại diện các ban của HĐND và các đoàn thể chính trị - xã hội tham dự.
IV. Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm
1. Nhận xét đánh giá chung
- Trong nhiệm kỳ 2004-2011, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn, nhưng kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên đã có bước phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu quan trọng đáng khích lệ: Kinh tế tiếp tục phát triển với nhịp độ khá; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực và hoàn thành hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu, nhiều chỉ tiêu đã vượt mức kế hoạch; các mặt hoạt động văn hoá - xã hội, như: giáo dục, y tế, thể dục - thể thao, văn hoá - thông tin, phát thanh, truyền hình, khoa học - công nghệ, môi trường... tiếp tục có nhiều chuyển biến và tiến bộ; đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh nhìn chung được ổn định và cải thiện đáng kể; quốc phòng an ninh được đảm bảo, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Có được những thành tựu quan trọng trên là do có đường lối đổi mới  của Đảng; sự lãnh đạo toàn diện, sâu sát của các cấp uỷ Đảng; sự điều hành, chỉ đạo kịp thời của các cấp chính quyền; sự tham gia tích cực, sáng tạo của MTTQ và các đoàn thể; tinh thần đoàn kết thống nhất và sự nỗ lực của cán bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh và sự hỗ trợ giúp đỡ tích cực của các cơ quan Trung ương.
- Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; năng lực cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế chưa cao; lĩnh vực dịch vụ chưa tạo được khâu đột phá; kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Một số công trình, dự án trọng điểm còn chậm tiến độ; một số chỉ tiêu chưa đạt so với yêu cầu đề ra.
+ Chất lượng giáo dục, đào tạo giữa các vùng, miền chưa đồng đều; giáo dục vùng sâu, vùng xa còn khó khăn. Tình trạng ô nhiễm môi trường còn phổ biến. Các loại tội phạm, tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp, tai nạn giao  thông chưa được ngăn chặn có hiệu quả.
+ Các chính sách về tài chính tín dụng, đất đai, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng hoàn thiện bộ máy, sử dụng và thu hút nhân tài chưa đáp ứng yêu cầu giải phóng các nguồn nội lực và thu hút vốn đầu tư phát triển. Công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch còn hạn chế nên dẫn đến kinh tế của tỉnh còn chậm phát triển so với nhiều tỉnh trong nước và thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh của tỉnh và chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.
+ Sự phối hợp với địa phương để triển khai nhiệm vụ của một số Bộ, ngành chưa được thường xuyên, liên tục. Nguồn lực hỗ trợ cho địa phương để thực hiện các mục tiêu, chính sách quá nhỏ. Để Thái Nguyên là trung tâm vùng về kinh tế, giáo dục đào tạo, khám chữa bệnh... đòi hỏi phải có sự đầu tư tập trung và triển khai quyết liệt thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu về tiến độ.
+ Việc triển khai kế hoạch thực hiện quy hoạch, các nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh ở một số cấp, ngành còn chậm, chưa bám sát nhiệm vụ được giao nên phần nào đã ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các dự án lớn do Trung ương và nước ngoài đầu tư trên, các dự án công trình trọng điểm địa bàn tỉnh. Nguồn ngân sách địa phương hạn hẹp không đáp ứng được các nhu cầu đặt ra nên việc triển khai thực hiện chương trình của tỉnh còn hạn chế.
- Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan như: thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.... Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu:
+ Việc quán triệt, triển khai, chỉ đạo các chủ trương của Trung ương và tỉnh ở một số cấp, ngành chưa sâu, chưa quyết liệt; việc phối hợp có lúc, có nơi chưa đồng bộ, chặt chẽ.
+ Công tác quy hoạch, quản lý và thực hiện quy hoạch trên một số lĩnh vực chưa tốt, nhất là quy hoạch đô thị. Nguồn lực đầu tư để triển khai các chương trình, dự án, đề án phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của tỉnh.
+ Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
2. Một số bài học kinh nghiệm
 Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của UBND, rút ra một số kinh nghiệm chung như sau:
Một là: Phải quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới và các chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân; tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp; hàng năm xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm để tập trung nguồn lực thực hiện đạt kết quả cao nhất; vận dụng sáng tạo, đúng đắn vào tình hình cụ thể ở địa phương.
Hai là: Coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Tuỳ từng thời kỳ cụ thể lựa chọn những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, xây dựng các chương trình, đề án để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm thay đổi căn bản một số lĩnh vực kinh tế, xã hội và đời sống của nhân dân.
Ba là: Xây dựng các cơ chế, chính sách, quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, thực hiện cải cách hành chính, tạo môi trường thuận lợi, thu hút có hiệu quả các nguồn lực ở địa phương, trong nước và nước ngoài để tập trung đầu tư cho phát triển; tăng cường đôn đốc, kiểm tra, thanh tra; thực hiện sơ kết, tổng kết để điều chỉnh cơ chế, chính sách cho phù hợp với thực tiễn ở địa phương.
Bốn là: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia vào các phòng trào thi đua yêu nước thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Năm là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Tiếp tục phát huy sức mạnh đoàn kết của cả hệ thống chính trị và nhân dân, tăng cường sự năng động, sáng tạo, đổi mới trong quá trình chỉ đạo, điều hành và nâng cao hiệu qủa thực hiện chính sách thu hút, sử dụng nhân tài, thực hiện lập và quản lý theo quy hoạch... trong việc tiếp tục thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.

Phần III
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ GIAI ĐOẠN 2011-2016

I. Phương hướng nhiệm vụ
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã được đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đề ra, trong nhiệm kỳ tới cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thể chế có hiệu quả phương hướng, nhiệm vụ sau đây:
1. Phát triển kinh tế nhanh bền vững
- Tập trung xây dựng, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển. Tiếp tục cải cách hành chính, thực hiện công tác quy hoạch chi tiết, bồi thường giải phóng mặt bằng, thu hút đầu tư, chính sách thúc đẩy sản xuất, kinh doanh.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ và hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả 5 chương trình, 16 đề án, 45 công trình, dự án quy hoạch trọng điểm. Đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng, quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu du lịch hồ Núi Cốc, ATK liên hoàn, khu đô thị phía tây thành phố Thái Nguyên, khu đô thị sinh viên; tổ chức thành công Festival trà quốc tế lần thứ nhất.
+ Phát triển đa dạng các hình thức dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Tập trung phát triển ngành du lịch theo hướng xã hội hóa và hiện đại.
+ Triển khai thực hiện nghị quyết trung ương 7 của Ban chấp hành Trung ương khoá X về "nông nghiệp, nông dân và nông thôn". Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ. Nâng cao hiệu quả công tác trồng rừng và bảo vệ rừng.
+ Tập trung triển khai có hiệu quả các đề tài, dự án khoa học. Đẩy nhanh tiến độ tổng kiểm kế đất đai, công tác lập quy hoạch đất giai đoạn 2011-2020. Tăng cường công tác quản lý khai thác khoáng sản và thực hiện tốt Đề án bảo vệ môi trường.
- Thực hiện tốt các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kìm chế lạm phát, phát triển sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội. Tập trung xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2011-2015. Tăng cường kiểm tra, quản lý chặt chẽ các hoạt động thu - chi ngân sách nhà nước.
2. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển đô thị theo hướng hiện đại.
- Tăng cường lập quy hoạch phát triển hệ thống đô thị trên địa bàn tỉnh; đầu tư chỉnh trang xây dựng đô thị thành phố Thái Nguyên hoàn thiện các tiêu chí đô thị loại I, thị xã Sông Công hoàn thiện thiện các chí đô thị loại III; xây dựng huyện Phổ Yên trở thành thị xã công nghiệp vào năm 2015.
- Quan tâm đầu tư xây dựng trụ sở làm việc ở cấp xã. Từng bước hoàn thiện hệ thống giao thông, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên, cải tạo nâng cấp quốc lộ 3.
3. Phát triển văn hoá xã hội đồng bộ với phát triển kinh tế.
- Đổi mới, phát triển giáo dục và đào tạo; thực hiện chiến lược giáo dục đến năm 2015; triển khai đề án phổ cập giáo dục đào tạo mần non cho trẻ 5 tuổi giai đoạn 2010 - 2015; đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
- Thực hiện có hiệu quả chương trình xoá đói, giảm nghèo, giảm tỷ lệ sinh thô, giải quyết việc làm cho người lao động.
- Chủ động thực hiện phòng chống dịch bệnh, các chương trình Y tế quốc gia, kiểm tra an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
- Nâng cao hiệu quả của công tác thông tin tuyên truyền, tạo đồng thuận cao trong xã hội để thực hiện phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo an sinh xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và các phong trào thi đua về thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Tăng cường công tác quốc phòng địa phương; công tác an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Chỉ đạo tổ chức thắng lợi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.
4. Xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.
- Đổi mới hoạt động của UBND các cấp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động điều hành của UBND các cấp. Thực hiện tốt hơn phân cấp quản lý giữa các cấp, các ngành, gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra công vụ, thi hành kỷ luật
- Thực hiện cải cách hành chính sâu rộng và đồng bộ hơn trên cả 4 nội dung: thể chế hành chính, bộ máy hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức và tài chính công. Đi sâu vào cải cách thể chế, đơn giản hoá thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực liên quan trực tiếp đến tổ chức, công dân và doanh nghiệp để thu hút đầu tư cho phát triển. Thực hiện tốt cơ chế một cửa, một cửa liên thông và quy trình giải quyết công việc trong các cơ quan hành chính. Đẩy mạnh phân cấp quản lý để nâng cao tính chủ động, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của từng cấp, từng ngành. Tăng cường thực hiện khoán biên chế gắn với khoán kinh phí quản lý hành chính trong các cơ quan hành chính nhà nước.
- Triển khai thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cả 3 loại hình cơ sở, đảm bảo các nội dung của quy chế được thực hiện thường xuyên, nền nếp. Tăng cường công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của tổ chức và công dân.
- Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức về công tác quản lý hành chính; thực hiện công tác luân chuyển cán bộ, công chức theo quy định. Cải tiến phương pháp tuyển dụng công chức theo hướng thiết thực, hiệu quả; ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý nhà nước, nhất là trong công tác điều hành.
II. Một số đề xuất, kiến nghị
Căn cứ vào quá trình triển khai các văn bản pháp luật và quá trình chỉ đạo, điều hành thực tiễn ở địa phương trong nhiệm kỳ 2004 - 2011, UBND tỉnh Thái Nguyên đề nghị HĐND tỉnh kiến nghị với Trung ương một số nội dung như sau:
1. Nghiên cứu tăng thêm số lượng Phó Chủ tịch UBND các cấp theo phân loại đơn vị hành chính. Tăng thêm bộ máy chuyên trách của HĐND cấp huyện, cấp tỉnh.
2. Thực hiện giao biên chế và chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp huyện, tỉnh theo phân loại đơn vị hành chính.
3. Cần nghiên cứu trong trường hợp đặc biệt quy định thêm thẩm quyền của Chủ tịch UBND như quyền Chủ tịch HĐND trong quy chế hoạt động của HĐND. Quy định thẩm quyền phê chuẩn miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh của thường trực HĐND các cấp. Vì theo luật việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh của UBND tỉnh quy định do Chính phủ phê chuẩn; các chức danh UBND cấp dưới do UBND cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
4. Cần làm rõ quy định về trình tự, thủ tục, hình thức kỷ luật đối với cán bộ bầu cử.
5. Tăng cường sự chỉ đạo thống nhất, đồng bộ và kịp thời từ Trung ương tới cơ sở về việc thực hiện các quy định mới ban hành của Nhà nước, làm rõ trách nhiệm, thẩm quyền, phân cấp cụ thể chức năng, nhiệm vụ, tránh tình trạng vừa thiếu thống nhất, vừa chồng chéo trong quản lý, điều hành giữa ngành và cấp, giữa cấp trên và cấp dưới, làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước. Khi ban hành Nghị định, đồng thời cần ban hành thông tư hướng dẫn để địa phương có căn cứ triển khai thực hiện.
Trên đây là báo cáo công tác đánh giá tình hình hoạt động của UBND tỉnh nhiệm kỳ 2004-2011, UBND tỉnh báo cáo trình HĐND tỉnh tại kỳ họp đánh giá tổng kết nhiệm kỳ hoạt động khóa XI./.

                                                TM. UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH
                                           CHỦ TỊCH

                                               (đã ký)

                                           Phạm Xuân Đương

Đọc thêm