BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 5 NĂM 2006 - 2010

Năm năm 2006 - 2010 là giai đoạn phát triển với mục tiêu đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố, nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh tế thành phố và cũng là giai đoạn thành phố phải trải qua nhiều khó khăn và thách thức

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ thành phố mục tiêu xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2010 là “Chủ động và sáng tạo phát huy tiềm năng, lợi thế của thành phố cảng, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển toàn diện; cơ bản hoàn thành hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo tiêu chí của thành phố công nghiệp hiện đại, đô thị trung tâm cấp quốc gia;… đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên một bước, tạo nền tảng vững chắc để Hải Phòng cơ bản trở thành thành phố công nghiệp, văn minh, hiện đại trước năm 2020”.

Năm năm 2006 - 2010 là giai đoạn phát triển với mục tiêu đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố, nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh tế thành phố và cũng là giai đoạn thành phố phải trải qua nhiều khó khăn và thách thức như: khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, những yếu kém từ nội tại của cơ cấu kinh tế thành phố; sự quản lý yếu kém của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam đã tác động đến kết quả tăng trưởng và phát triển của kinh tế thành phố. Song, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ, quân và dân thành phố đã phát huy tinh thần đoàn kết, chủ động, sáng tạo, nắm thời cơ, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu, đạt được những kết quả quan trọng:

I. VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Kinh tế phát triển ổn định và liên tục tăng trưởng; cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thành phố 5 năm 2006 - 2010 của Hội đồng nhân dân thành phố khóa XIII kỳ họp thứ 6 đã đề ra, trong đó một số chỉ tiêu đạt mức khá cao. Cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô kinh tế thành phố tiếp tục phát triển rõ nét; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tiên tiến; tiềm năng, lợi thế của thành phố cảng được khai thác, phát huy toàn diện và hiệu quả hơn; khẳng định rõ tính chất, vai trò là cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc và cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ; đang từng bước trở thành một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ của vùng Duyên hải Bắc bộ; tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng.

1. Kinh tế phát triển nhanh, liên tục và ổn định:

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong giai đoạn 2006- 2008 (bình quân tăng 12,76%/năm); từ năm 2009 đến năm 2010, tốc độ tăng trưởng chậm hơn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, bình quân trong 5 năm đạt 11,32%; tuy không đạt mục tiêu Đại hội đề ra (12-13%/năm), song vẫn gấp 1,5 lần mức tăng bình quân chung của cả nước. Nhiều chỉ tiêu đạt cao, về trước kế hoạch từ 1 đến 3 năm, như sản lượng hàng hoá thông qua cảng, thu ngân sách trên địa bàn, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Quy mô kinh tế tăng đáng kể so với năm 2005, GDP năm 2010 gấp 1,7 lần, GDP bình quân đầu người tăng 63,4% (năm 2010 đạt 1.742USD/người); tỷ trọng GDP (theo giá so sánh) trong GDP cả nước chiếm khoảng 4,4% (năm 2005 là 3,6%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiên tiến, tỷ trọng GDP của các nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng từ 87% năm 2005 lên 90% năm 2010 (trong đó dịch vụ tăng từ 50,8% lên 53%). Một số ngành, lĩnh vực kinh tế chủ lực, nhiều lợi thế phát triển nhanh, có thêm sản phẩm mới.

2. Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá:

Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân 5 năm (2006-2010) ước tăng 14,93%/năm không đạt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm đề ra (kế hoạch 5 năm tăng 18-19%/năm), tuy nhiên công nghiệp vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ lực, đến năm 2010 chiếm 31% trong GDP của thành phố, góp phần quan trọng hàng đầu vào tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu, thu hút lao động; tạo điều kiện thúc đẩy phát triển dịch vụ, đô thị và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Các sản phẩm mũi nhọn, quan trọng được tập trung đầu tư phát triển, làm nền tảng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá như: cơ khí, phôi thép, thép tấm, xi măng, nhiệt điện, phân bón DAP… Đã từng bước hình thành trung tâm công nghiệp đóng tầu, sản xuất kim loại lớn của vùng và cả nước. Một số ngành kỹ thuật cao được hình thành như sản xuất máy móc thiết bị điện, điện tử; dụng cụ y tế, dụng cụ chính xác; thiết bị văn phòng và máy tính. Việc thu hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp có chuyển biến tích cực; đã cơ bản lấp đầy Khu công nghiệp Nomura và các cụm công nghiệp Vĩnh Niệm, Quán Trữ. Các Khu công nghiệp Đình Vũ, Đồ Sơn thu hút được nhiều nhà đầu tư; đang tích cực xây dựng thêm các khu, cụm công nghiệp mới (Sài Gòn - Hải Phòng, VSIP tại Thủy Nguyên...) tạo mặt bằng sạch cho các dự án đầu tư. Việc phát triển các khu, cụm công nghiệp tập trung đã và đang mang lại hiệu quả tích cực, bên cạnh đó đã quan tâm quản lý và bước đầu kiểm soát được nguồn ô nhiễm trong các khu công nghiệp.

3. Nông nghiệp, nông thôn, nông dân thu được những kết quả quan trọng:

Nông nghiệp: giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân 5 năm (2006 – 2010) tăng 4,56%/năm vượt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm đề ra (kế hoạch 5 năm tăng 3,5 – 4%). Kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và bảo đảm an ninh lương thực. Tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 40-42% giá trị của toàn ngành nông nghiệp (năm 2005 chiếm gần 35%). Phát triển khá nhanh các mô hình trang trại và vùng sản xuất tập trung chuyên canh (đến nay trên địa bàn thành phố đã có 618 trang trại chăn nuôi theo hướng công nghiệp) đồng thời quan tâm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, góp phần nâng cao năng suất, giá trị và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp (giá trị sản xuất nông nghiệp trên đất canh tác đạt bình quân 75 triệu đồng/ha/năm, nhiều diện tích đạt trên 100 triệu đồng/ha/năm). Hình thành và phát triển nhanh các vùng sản xuất nông sản tập trung có giá trị kinh tế cao như vùng chuyên canh rau, chuyên cây công nghiệp truyền thống, cây thực phẩm, hoa, quả và cây cảnh tại các huyện An Dương, An Lão, Thủy Nguyên. Từng bước thực hiện có hiệu quả mô hình liên kết Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân.

Thủy sản: giá trị sản xuất thuỷ sản bình quân 5 năm (2006-2010) ước tăng 7,99%/năm không đạt kế hoạch 5 năm đề ra (kế hoạch 5 năm 15%/năm); cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nuôi trồng được đầu tư, nâng cấp, tu bổ. Phát triển nuôi trồng ở cả ba khu vực; đẩy mạnh nuôi thâm canh, bán thâm canh, phát triển nuôi trên biển, nuôi nước ngọt. Tiếp tục khuyến khích khai thác đánh bắt hải sản xa bờ; phát triển nhanh đội tàu với kỹ thuật, thiết bị được đầu tư mới, đủ năng lực vươn khơi và mang lại hiệu quả. Mở rộng liên kết, hợp tác trong nuôi trồng, khai thác, xuất hiện mô hình mới. Hệ thống dịch vụ hậu cần thuỷ sản được tổ chức tốt hơn, phục vụ có hiệu quả cho nuôi trồng, khai thác. Hạ tầng nghề cá đã được quan tâm đầu tư, từng bước được hiện đại hoá. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong đánh bắt, nuôi trồng và chế biến đạt kết quả tích cực hơn. Ngày càng khẳng định vai trò là trung tâm sản xuất giống thuỷ - hải sản ở miền Bắc.

Triển khai Dự án dịch vụ hậu cần nghề cá Bạch Long Vỹ giai đoạn 1 và xây dựng cảng, khu neo đậu tàu thuyền nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng huyện đảo trở thành trung tâm chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá cho các tỉnh ven biển Bắc và Trung bộ.

4. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, đúng định hướng, chất lượng và hiệu quả được nâng lên

Kinh tế dịch vụ phát triển đúng định hướng tạo sức tác động lan tỏa bước đầu đối với vùng, miền và vươn ra quốc tế, khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội; góp phần tích cực, trực tiếp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố, từng bước trở thành một trong các trung tâm dịch vụ lớn của vùng Duyên hải Bắc bộ. GDP ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao và đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng GDP của thành phố, tốc độ tăng trưởng bình quân GDP ngành dịch vụ giai đoạn 2006-2010 đạt 12,41%/năm. Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng dịch vụ theo hướng hiện đại, nhất là hạ tầng cảng, thương mại, viễn thông, công nghệ thông tin, vận tải, du lịch. Hệ thống cảng biển được mở rộng, nâng cấp, phát triển hướng ra biển, hiện đại hóa phương tiện, đổi mới quản lý, nâng cao năng lực, sức cạnh tranh. Hoạt động dịch vụ cảng biển phát triển khá mạnh. Sản lượng hàng hoá thông qua các cảng trên địa bàn đạt mục tiêu Đại hội đề ra trước 2 năm. Dịch vụ kho bãi phát triển mạnh, đa dạng; năng lực vận tải (đường bộ, đường biển) được nâng lên; vận tải biển tiếp tục củng cố vai trò là trung tâm của cả nước.

Thương mại phát triển khá toàn diện; tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng 24,13%/năm. Quan tâm đầu tư thêm một số trung tâm thương mại, siêu thị hiện đại, đáp ứng yêu cầu để Hải Phòng giữ vai trò trung tâm phát luồng hàng hoá của vùng và cả nước. Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước đạt 1,95 tỷ USD, tăng bình quân 18,93%/năm, đạt kế hoạch. Số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu tăng nhanh; cơ cấu sản phẩm xuất khẩu có chuyển biến; sản phẩm công nghiệp chế biến tăng khá.

 Du lịch có bước phát triển trên nhiều lĩnh vực, tuy nhiên số lượt khách đến thành phố bình quân 5 năm (2006-2010) tăng 11,67%/năm, không đạt kế hoạch 5 năm đề ra (chỉ tiêu kế hoạch 5 năm đề ra 5,6 triệu lượt khách vào năm 2010) Cơ sở hạ tầng du lịch được quan tâm đầu tư, có thêm nhiều khách sạn, nhà hàng, tôn tạo nhiều công trình văn hoá lịch sử. Chú trọng khai thác lợi thế về du lịch biển. Các khu du lịch Cát Bà, Đồ Sơn được tập trung đầu tư cùng với khu du lịch vịnh Hạ Long trở thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế của cả nước.

Bưu chính, viễn thông phát triển mạnh, số doanh nghiệp tăng hơn 2 lần so với năm 2005; thuê bao điện thoại và internet tăng nhanh; mạng viễn thông đã phủ khắp thành phố, kể cả huyện đảo Bạch Long Vỹ. Cơ sở hạ tầng và các dịch vụ ứng dụng công nghệ thông tin phát triển khá nhanh, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính và doanh nghiệp.

 Các dịch vụ mới như kinh doanh bất động sản, tư vấn, bảo hiểm, cho thuê tài chính, ngân hàng, chứng khoán... phát triển khá. Hoạt động dịch vụ trong các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, công ích, tư vấn… được đẩy mạnh, mở rộng theo hướng xã hội hoá và đạt được kết quả tích cực. Dịch vụ phục vụ đầu tư sản xuất - kinh doanh, kiểm toán, kế toán, tư vấn tài chính, pháp lý, xây dựng và quản lý đô thị phát triển đa dạng, theo hướng chuyên nghiệp, từng bước đồng bộ, chất lượng được nâng lên. Các dịch vụ khuyến nông, khuyến ngư có nhiều tiến bộ, hỗ trợ tốt cho ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và khoa học-công nghệ.

5. Huy động vốn đầu tư phát triển tăng nhanh qua các năm:

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tính chung 5 năm ước đạt 119.268,24 tỷ đồng, tăng bình quân 20,42% vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch tăng 14,0%). Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp tăng nhanh; nguồn vốn dân cư chiếm tỷ trọng khá lớn. Vốn ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng trong việc đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tăng sức hấp dẫn các nguồn vốn đầu tư khác. Nguồn vốn ODA được chú trọng khai thác để cải tạo từng bước hạ tầng đô thị (dự án cấp nước 1A, dự án thoát nước 1B đã hoàn thành và phát huy hiệu quả tốt, dự án xây dựng nhà máy xử lý chất thải rắn Hàn Quốc đã đưa vào vận hành, các dự án thoát nước mưa, thoát nước thải và quản lý chất thải rắn; dự án nâng cấp đô thị... đang tiếp tục triển khai và bắt đầu phát huy hiệu quả). Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh trong các năm 2006: 197,8 triệu USD; năm 2007: 431,37 triệu USD năm 2008: 1.615,45 triệu USD, từ năm 2009 do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế nên chỉ đạt 125,9 triệu USD. Thành phố đẩy mạnh việc thu tiền sử dụng đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất và thu tiền đất từ các dự án phát triển nhà ở, tiền sử dụng đất di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi nội thành. Nhiều dự án lớn trên địa bàn thành phố đã được ngân sách Trung ương tăng hỗ trợ vốn đầu tư để triển khai và đẩy nhanh tiến độ thực hiện như dự án cầu Khuể, Trường Đại học Hải Phòng, nhà thi đấu thể thao đa năng, Bệnh viện Việt Tiệp.... Một số dự án quan trọng của các Bộ, ngành trung ương, Tổng công ty và các đơn vị thành phố triển khai trong nhiều ngành, lĩnh vực: xây dựng cảng Đình Vũ, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu thuỷ, dự án DAP, Nhiệt điện, cán thép; cơ sở hạ tầng thương mại, du lịch; dịch vụ thuỷ sản; sản xuất công nghiệp, công nghệ cao trong nông nghiệp được triển khai nhanh hơn.

6. Tài chính – Tín dụng

Tài chính: Thu ngân sách trên địa bàn, bình quân 5 năm ước tăng 32,19% vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch ra tăng 15%), thu nội địa tăng nhanh, bình quân 5 năm ước tăng 13,2%/năm, cơ bản đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, phát sinh đột xuất và tăng chi đầu tư phát triển. Thu ngân sách trên địa bàn tăng cao, hoàn thành vượt mức kế hoạch; cơ cấu thu nội địa có sự chuyển biến tích cực. Ưu tiên hỗ trợ vốn triển khai và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án trọng điểm. Bố trí vốn cơ bản đáp ứng yêu cầu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ nhiệm vụ, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo được quan tâm bố trí, đảm bảo theo định hướng của Trung ương. Từng bước khắc phục có hiệu quả việc đầu tư dàn trải, thực hiện đầu tư có trọng điểm, phù hợp với khả năng cân đối vốn ngân sách.

Hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng: phát triển khá nhanh, ổn định và hiệu quả, tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển, đáp ứng kịp thời các nhu cầu về vốn và dịch vụ ngân hàng, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn trong 5 năm đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 30%/năm, tốc độ dư nợ bình quân trong 5 năm là 28%/năm. Công tác thu chi tiền mặt được thực hiện tốt, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu về số lượng và cơ cấu các loại tiền.

7. Hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai có hiệu quả góp phần mở rộng không gian kinh tế, nâng cao vị thế của Hải Phòng với cả nước và quốc tế.

Công tác đối ngoại, các chương trình hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế đối ngoại và các chương trình hợp tác với nhiều địa phương được chủ động triển khai góp phần quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của thành phố. Thực hiện đạt kết quả bước đầu các chương trình trọng tâm về hội nhập kinh tế quốc tế. Triển khai khá tốt công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức và kịp thời ban hành cơ chế, chính sách liên quan giúp doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư, hợp tác quốc tế và phát triển.

Hoạt động đối ngoại được thực hiện toàn diện trên các lĩnh vực, phục vụ tích cực quá trình phát triển kinh tế, thúc đẩy hội nhập; không gian kinh tế thành phố được mở rộng thêm một bước, đóng góp quan trọng vào việc huy động vốn đầu tư và mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong 5 năm ước thu hút được 2.671 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; huy động trên 500 triệu USD từ nguồn vốn tài trợ chính thức của các quốc gia, vùng lãnh thổ (ODA); thị trường xuất khẩu mở rộng tới 75 quốc gia, vùng lãnh thổ (năm 2005 là 50); một số dự án của doanh nghiệp Hải Phòng đầu tư ra nước ngoài được triển khai. Tiếp tục củng cố, mở rộng quan hệ hợp tác với các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước, nhất là với Thủ đô Hà Nội, các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương. Tích cực tham gia, thúc đẩy quá trình xây dựng các tuyến hành lang, vành đai kinh tế Việt Nam - Trung Quốc. Từng bước tham gia tổ chức đa phương-mạng lưới các thành phố khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.

8. Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, có chuyển biến rõ nét; các thị trường cơ bản đã hình thành và phát triển khá nhanh

Ban hành nhiều chủ trương, cơ chế chính sách thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp; năng lực cạnh tranh chung của thành phố và của nhiều doanh nghiệp được nâng lên. Công bố bộ thủ tục hành chính dùng chung cho các ngành, các cấp; thực hiện đơn giản hoá, cắt giảm trên 30% thủ tục hành chính; hầu hết các sở, ngành, quận, huyện đã thực hiện cơ chế “một cửa” theo hướng độc lập chuyên trách, “một cửa” liên thông, hiện đại. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong giải quyết thủ tục hành chính có chuyển biến tích cực.

Các thị trường cơ bản đã hình thành và phát triển khá nhanh theo hướng ngày càng đồng bộ; gắn kết tăng trưởng kinh tế với thực hiện tốt công tác an sinh xã hội; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội được nâng lên. Thị trường hàng hoá, dịch vụ phát triển về quy mô, phong phú về số lượng, loại hình sản phẩm. Phát triển nhanh thị trường lao động, nhất là lao động đã qua đào tạo. Thị trường khoa học và công nghệ bước đầu phát triển. Thị trường tài chính, bất động sản có sự phát triển mới, thể hiện rõ hơn vai trò trong việc huy động và đáp ứng một phần nhu cầu vốn đầu tư phát triển.

9. Phát triển nhanh các thành phần kinh tế

Số lượng doanh nghiệp phát triển nhanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng lên. Công tác sắp xếp, đổi mới, trọng tâm là cổ phần hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được thực hiện tích cực, đúng chủ trương, đường lối của Đảng và lộ trình của Chính phủ. Kinh tế nhà nước sử dụng có hiệu quả hơn vốn, tài sản của Nhà nước và huy động vốn xã hội, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, giữ vững vai trò chủ đạo trong một số ngành quan trọng và phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu. Kinh tế tập thể tiếp tục được củng cố, xuất hiện mô hình, nhân tố mới có tính liên kết, hợp tác, hoạt động hiệu quả hơn; đóng góp khá tích cực vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, giảm nghèo, giải quyết việc làm, xây dựng cộng đồng… Kinh tế tư nhân phát triển nhanh cả về số lượng và quy mô, mở rộng lĩnh vực hoạt động, thu hút vốn lớn của toàn xã hội, tham gia vào hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, góp phần quan trọng giải quyết việc làm và đóng góp ngày càng lớn vào tổng GDP của thành phố. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng khá, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, tạo thêm nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, gia tăng năng lực sản xuất của một số ngành quan trọng; nâng cao năng lực xuất khẩu, thúc đẩy phát triển thị trường trong nước và các hoạt động dịch vụ khác.

Thành phố tích cực thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, tạo chuyển biến tốt về môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh. Thực hiện chủ đề hàng năm, thành phố đã tập trung tạo chuyển biến tích cực cho môi trường đầu tư sản xuất kinh doanh, trên cơ sở thực hiện nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư trong nước; loại bỏ các thủ tục, văn bản chỉ đạo không phù hợp; trong đó đã sửa đổi một bước cơ bản nội dung quy trình giao đất, cho thuê đất, cấp phép xây dựng, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, cấp đăng ký kinh doanh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tạo thuận tiện cho doanh nghiệp và nhân dân.

10. Khoa học và công nghệ đóng góp có hiệu quả vào nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế

 Khoa học và công nghệ hỗ trợ nhiều doanh nghiệp phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế; cung cấp luận cứ khoa học cho nhiều chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo phát triển thành phố. Tiềm lực khoa học và công nghệ được tăng cường. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển. Triển khai có hiệu quả Chương trình nghiên cứu khoa học theo Kế hoạch số 02-KH/TU của ban Thường vụ Thành ủy gồm 9 chuyên đề phục vụ triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ tiếp tục được đổi mới. Thị trường khoa học và công nghệ bước đầu hình thành và phát huy hiệu quả. Triển khai xây dựng Dự án đầu tư nâng cao năng lực đo lường – thử nghiệm của Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng Duyên hải Bắc Bộ; Xây dựng khu trình diễn và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ tại quận Kiến An.

11. Về quản lý và phát triển đô thị, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn và bảo vệ môi trường

Các lĩnh vực đô thị, giao thông, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn tiếp tục được tăng cường đầu tư xây dựng, có sự phát triển mới; chú trọng hơn công tác quản lý và sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, nhiều lĩnh vực có chuyển biến tích cực.  

11.1.Về quản lý và phát triển đô thị:

 Đô thị phát triển cả về quy mô và diện mạo theo đúng tiêu chí đô thị loại I trực thuộc Trung ương, với chức năng trung tâm cấp quốc gia, mang bản sắc cảng biển, văn minh, hiện đại. Quy mô đô thị được mở rộng; thành lập quận mới Dương Kinh và chuyển thị xã Đồ Sơn thành quận. Chú trọng phát triển các khu đô thị mới, cải tạo, nâng cấp đô thị cũ; đầu tư nâng cấp khá đồng bộ các công trình cấp, thoát nước, điện, thông tin liên lạc, công viên cây xanh, vệ sinh đô thị, văn hoá, thể dục thể thao, du lịch, y tế… Đô thị nông thôn được quan tâm, có khởi sắc, tạo sự kết nối giữa đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh. Công tác quản lý đô thị được tăng cường; nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý trật tự xây dựng, quản lý quỹ nhà công; triển khai một số dự án nhà ở xã hội, nhà công vụ. Quản lý trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh môi trường, văn minh đô thị có chuyến biến khá rõ nét. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển đô thị có nhiều tiến bộ; chất lượng được nâng lên, thể hiện sự phù hợp giữa quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo tính liên ngành, liên vùng, hạn chế tình trạng khép kín, cục bộ. Thực hiện có hiệu quả việc thuê chuyên gia, tư vấn nước ngoài xây dựng hoặc thi tuyển xây dựng một số đồ án, dự án quy hoạch phát triển đô thị, khu công nghiệp có quy mô lớn hoặc có tính chất quan trọng. Bước đầu thực hiện có nền nếp việc công khai quy hoạch, thiết lập kỷ cương trong quản lý quy hoạch; khắc phục tình trạng vi phạm trong quản lý thực hiện quy hoạch.

Một số dự án phát triển hạ tầng giao thông, đô thị quy mô lớn, có vị trí trọng yếu và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của Hải Phòng và vùng kinh tế phía Bắc được chủ động và tích cực triển khai. Phần lớn các nhiệm vụ trọng tâm về phát triển hạ tầng đô thị đã được thực hiện và đạt kết quả tích cực trên nhiều mặt. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật đô thị được mở rộng, nâng cấp, rõ tính hiện đại. Nâng cấp chỉnh trang hạ tầng kỹ thuật đô thị trung tâm, các thị trấn, thị tứ theo hướng đồng bộ. Vốn đầu tư phát triển đô thị tăng nhanh, đạt mức tăng bình quân trên 10%/năm.

11.2. Về phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn:

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường đầu tư theo hướng đồng bộ, bền vững, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới; trên nhiều mặt tạo được sự chuyển biến tích cực, rõ nét. Đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và xây dựng trên địa bàn nông thôn tăng khá nhanh cả về số dự án và vốn, đóng góp tích cực vào chuyển dịch cơ cấu lao động và kinh tế nông thôn. Hình thành một số khu, cụm công nghiệp tập trung; thực hiện chủ trương “đổi điền, dồn thửa”, tạo tiền đề cho quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất để tổ chức sản xuất hàng hoá nông sản quy mô lớn; khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống. Chú trọng các dự án tu bổ đê điều, nâng cấp đê biển; cơ bản hoàn thành chương trình điện nông thôn. Đầu tư, nâng cấp giao thông nông thôn; 100% đường liên huyện được trải nhựa đạt tiêu chuẩn cấp V đồng bằng; 90% đường liên xã và đường thôn xóm được trải nhựa hoặc bê tông. Trên 90% số dân nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh; 100% số xã có nhà văn hoá và điểm bưu điện văn hoá; 100% xã có trạm y tế và bác sỹ, đạt chuẩn quốc gia về y tế cơ sở.

11.3. Công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường:

Công tác quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, công tác bảo vệ môi trường được chú trọng. Các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được xây dựng và thực hiện, đảm bảo yêu cầu về chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh. Quản lý, sử dụng đất đai khu vực đô thị có tiến bộ; giảm tình trạng lấn chiếm và sử dụng đất sai mục đích. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, nhất là các dự án trọng điểm có chuyển biến tích cực; các quy trình giao đất, cho thuê đất được cải tiến, thực hiện nhanh hơn. Thu hồi đất một số dự án sử dụng không đúng mục đích, chậm triển khai so với quy định của pháp luật hoặc nợ đọng tiền sử dụng đất. Thể chế hoá chính sách của Nhà nước về quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tạo sự chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực.

Thực hiện quan điểm đầu tư phát triển gắn với bảo vệ môi trường đạt kết quả bước đầu; kiên quyết không chấp thuận dự án công nghiệp có thiết bị, công nghệ không đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. Công tác quản lý, giám sát môi trường đô thị, các trọng điểm du lịch, sản xuất công nghiệp, nhất là ở các cơ sở mới đầu tư có nhiều tiến bộ. Các biện pháp quản lý, bảo vệ môi trường ở những khu vực trọng điểm, nguy cơ ô nhiễm cao được tăng cường. Việc xây dựng cơ chế, chính sách và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ môi trường được chú trọng. Cải tạo, nâng cấp một số cơ sở hạ tầng, hệ thống thiết bị phục vụ công tác bảo vệ môi trường, góp phần cải thiện năng lực, trình độ bảo vệ và khả năng ứng cứu, khắc phục sự cố về môi trường.

II. VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA - XÃ HỘI

1. Giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực

Giáo dục - đào tạo phát triển, gắn kết chặt chẽ hơn với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở; cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc phổ thông trung học và nghề. Cơ sở vật chất, thiết bị trường học được tăng cường đáng kể. Chất lượng giáo dục phổ thông được giữ vững và thực chất hơn; số học sinh giỏi quốc gia, quốc tế đứng ở tốp đầu cả nước. Giáo dục đại học phát triển cả về quy mô và chất lượng, thu hút sinh viên từ 55 tỉnh, thành phố theo học, bước đầu thể hiện vai trò là một trong những trung tâm đào tạo nguồn nhân lực của cả nước. Công tác đào tạo nghề phát triển về quy mô, xã hội hóa về phương thức, chất lượng được nâng lên. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 65% , trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 43%. Chất lượng nguồn nhân lực bước đầu đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

2. Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, dân số và kế hoạch hoá gia đình

 Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt kết quả khá toàn diện. Phòng, chống, dập tắt kịp thời các loại dịch bệnh. Hệ thống y tế cơ sở cơ bản đạt chuẩn quốc gia. Đầu tư trang bị thêm một số thiết bị chẩn đoán và chữa bệnh hiện đại, tiếp thu và thực hiện thành công một số kỹ thuật y tế tiên tiến, chất lượng khám, chữa bệnh có tiến bộ. Thực hiện xã hội hoá, công bằng trong khám, chữa bệnh đạt kết quả tích cực; đến nay đã có 13/25 Bệnh viện có liên doanh liên kết với các cá nhân, tổ chức trong việc đầu tư đặt các máy móc thiết bị y tế kỹ thuật cao để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân; 2 bệnh viện đã khoa tư nhân; 32 phòng khám đa khoa; 516 Phòng khám chuyên khoa; 204 cơ sở dịch vụ y tế tư nhân đang hoạt động đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân; 100% người nghèo đã có bảo hiểm y tế công tác khám chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, bệnh nhân có thẻ bảo hiểm y tế đã được thực hiện đầy đủ ở các tuyến khám chữa bệnh. Dự án xây dựng Bệnh viện hữu nghị Việt -Tiệp theo tinh thần Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị đạt kết quả bước đầu. Công tác dân số, gia đình và trẻ em tiếp tục được quan tâm chăm lo, cơ bản giữ vững những kết quả đạt được 95% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ khám, chữa bệnh miễn phí; 95% trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được chăm sóc, giúp đỡ thường xuyên; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 18,0% năm 2005 xuống còn 13,6% năm 2009; 40% xã, phường đạt tiêu chuẩn “phù hợp với trẻ em”. Hệ thống y tế dân số kế hoạch hóa gia đình từ thành phố đến quận, huyện được kiện toàn và nâng cấp theo hướng hiện đại, hiệu quả; hạn chế tối đa số người sinh con thứ 3, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm dưới 1,0%.

3. Phát triển các hoạt động văn hóa, thể thao

Nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, thể thao được chú trọng thực hiện với nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả. Hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở của thành phố ngày càng phục vụ tốt các hoạt động vui chơi giải trí của nhân dân, đến nay thành phố đã có 168 nhà văn hóa xã, thị trấn; 672 nhà văn hóa, trung tâm văn hóa làng, 14 nhà văn hóa, trung tâm văn hóa quận, huyện; đời sống văn hóa và môi trường văn hóa đạt nhiều kết quả tích cực. Thực hiện phương thức xã hội hóa các hoạt động văn hóa, văn nghệ đạt kết quả bước đầu, thiết thực nâng cao mức thụ hưởng và tham gia sáng tạo văn hóa của nhân dân. Các thiết chế văn hóa phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao của nhân dân được quan tâm đầu tư; các dự án di tích văn hóa, lịch sử được đầu tư tôn tạo (Nhà hát Thành phố, Đền Nghè, Từ Lương Sâm, Tháp Tường Long...)

Thể thao thành tích cao giữ vững ở tốp đầu cả nước, đứng thứ 4 trong các tỉnh thành phố, một số môn thể thao cơ bản trong hệ thống thi đấu Olympic đạt trình độ cao ở châu Á và Đông Nam Á. Dự án Khu liên hợp thể thao thành phố được tập trung triển khai xây dựng với quy mô lớn đáp ứng chức năng là một trung tâm thể thao vùng và cả nước.Công tác xã hội hóa thể thao được quan tâm, đạt kết quả tích cực, cơ sở thể dục thể thao ngoài công lập tăng cả về số lượng và chất lượng, trung bình hàng năm các doanh nghiệp tài trợ cho phát triển thể dục thể thao từ 10 – 15 tỷ đồng. Bóng đá là môn thể thao được chọn đi đầu trong việc chuyên nghiệp hóa; đã hình thành được 9 Hội và Liên đoàn thể thao các môn bóng đá, cầu lông, quần vợt…đã có 2 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực thể dục thể thao.

4. Đẩy mạnh thực hiện các chính sách xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, từng bước thực hiện công bằng xã hội

Quan tâm thực hiện có chiều sâu các chính sách xã hội, giải quyết vấn đề xã hội bức xúc. Tạo việc làm mới cho người lao động bình quân đạt 4,46 vạn lượt người/năm; tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng đáng kể. Công tác phòng, chống các tệ nạn xã hội được tăng cường. Công tác chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công; đảm bảo an sinh xã hội được triển khai tích cực, bằng nhiều giải pháp đồng bộ, thu hút sự tham gia của toàn xã hội, đạt hiệu quả rõ. Bảo hiểm xã hội có tiến bộ rõ nét. Chương trình giảm nghèo đạt hiệu quả cao, số hộ nghèo đến năm 2010 giảm còn 3,86% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010) hỗ trợ, giúp đỡ trên 4.000 hộ nghèo xóa nhà tranh, nhà tạm.

Công tác phòng, chống các tệ nạn xã hội được tăng cường. Hàng nghìn lượt người nghiện ma tuý và gái mại dâm được giáo dục, chữa trị tại cộng đồng và trong các trung tâm giáo dục lao động xã hội. Đời sống của các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện.

5. Về nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cấp chính quyền

Chủ trương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường tại 7 quận, 7 huyện và 70 phường của thành phố được thực hiện chủ động, nghiêm túc, đúng quy định, đạt kết quả tích cực. Chính quyền các cấp có nhiều đổi mới trong công tác chỉ đạo, điều hành, đảm bảo rõ trọng tâm, trọng điểm, quyết liệt, sát cơ sở hơn; hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên.

Cải cách hành chính được triển khai khá đồng bộ trên các lĩnh vực, đạt kết quả rõ, nhất là trong thực hiện cải cách thủ tục hành chính; Hải Phòng là một trong những địa phương đi đầu cả nước về xây dựng và áp dụng mô hình thực hiện bộ phận “một cửa” hiện đại, liên thông, độc lập chuyên trách ở Uỷ ban nhân dân các cấp và một số sở, ngành; thực hiện Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ về rà soát, đơn giản hoá các thủ tục hành chính. Tổ chức, bộ máy các sở, ngành, quận, huyện được sắp xếp, kiện toàn theo đúng chỉ đạo của Chính phủ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục được quan tâm. Cải cách tài chính công đạt kết quả khá rõ nét. Cơ quan hành chính các cấp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng tiên tiến (tiêu chuẩn ISO hành chính), cải tiến phương pháp, lề lối làm việc; chất lượng, hiệu quả công tác được nâng lên.

Cải cách tư pháp được chủ động triển khai nghiêm túc, có chiều sâu, đạt kết quả bước đầu quan trọng. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có chuyển biến tiến bộ. Thực hiện nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà đạt hiệu quả khá rõ nét. Đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp có tiến bộ về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm. Cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp được quan tâm đầu tư, cơ bản đáp ứng yêu cầu chung, nhất là yêu cầu tăng thẩm quyền xét xử cho toà án cấp huyện.

Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được quan tâm chỉ đạo, triển khai tích cực các nhiệm vụ, giải pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, góp phần hạn chế các vụ việc mới phát sinh; chỉ đạo giải quyết cơ bản các vụ việc tham nhũng tồn đọng. Nhận thức và tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng có chuyển biến tích cực.

6. Về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng-an ninh

Công tác giáo dục quốc phòng-an ninh được triển khai tích cực, hiệu quả. Một số công trình quốc phòng, an ninh được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp. Chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang thành phố được nâng lên, hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng vũ trang của Trung ương đóng quân trên địa bàn, nắm chắc tình hình, sẵn sàng chiến đấu cao; giữ vững thế chủ động chiến lược, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại kịp thời mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạnh nước ta trong chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; không để xảy ra diễn biến phức tạp, đột xuất bất ngờ; tham gia tích cực và hiệu quả công tác phòng, chống bão lụt, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra.

Thực hiện có hiệu quả các chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, tện nạn xã hội và kiềm chế tai nạn giao thông. Thực hiện các nghị quyết của Trung ương và Thành uỷ về nâng cao chất lượng công tác công an trong tình hình mới đạt kết quả rõ nét. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ quyền an ninh biên giới biển, đảo được tăng cường và giữ vững. Huy động và phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, đảm bảo môi trường hòa bình, phục vụ có hiệu quả quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ thành phố.

III. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN:
1. Hạn chế:
Qua 5 năm thực hiện Kế hoạch kinh tế - xã hội, mặc dù có nhiều thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên kinh tế thành phố còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém:

1.1. Quy hoạch bất cập, không theo kịp sự phát triển: quy hoạch không gian đô thị, quy hoạch kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch không gian phát triển, đặc biệt là quy hoạch không gian biển… cần phải được bổ sung, điều chỉnh.

Chất lượng một số dự án quy hoạch phát triển đô thị còn hạn chế; chưa quan tâm đúng mức quy hoạch xây dựng ở nông thôn; tốc độ phát triển đô thị nông thôn chưa tương xứng với yêu cầu đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nói chung và cơ sở hạ tầng giao thông, đô thị nói riêng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là hệ thống giao thông đường bộ liên quan đến hoạt động của cảng, cơ sở vui chơi, giải trí cho người dân. Công tác quản lý thực hiện quy hoạch, xây dựng và phát triển đô thị, hiệu lực, hiệu quả thấp, còn biểu hiện sơ hở, yếu kém; thực hiện văn minh đô thị chưa được đề cao, chuyển biến chậm.

1.2. Xuất hiện những tắc nghẽn cản trở sự phát triển của kinh tế thành phố
Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông phát triển không kịp so với yêu cầu phát triển kinh tế đang tạo ra điểm nghẽn trong tăng trưởng. Đặc biệt hệ thống cảng biển giao thông đường bộ phục vụ giải tỏa cảng, giao thông đô thị chưa đáp ứng được yêu cầu đã gây hiện tượng ách tắc cục bộ tại ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm đến đập Đình Vũ, đường Trần Nguyên Hãn – cầu Niệm…
Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Số cơ sở đào tạo tăng nhiều nhưng quy mô và chất lượng chưa đáp ứng. Chưa có nhiều cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hóa trong đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao.
Cải cách hành chính mới tập trung cao ở khâu thủ tục hành chính, chưa tập trung nhiều cho tổ chức bộ máy, chất lượng cán bộ, công chức. Môi trường đầu tư kinh doanh có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa thực sự hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, nhà đầu tư…
Kết quả thực hiện cải cách hành chính còn chưa đồng đều, vững chắc giữa các địa phương, đơn vị. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chưa được quan tâm đúng mức với yêu cầu là một trong những nhiệm vụ và giải pháp đột phá. Những hạn chế, bất cập trong thủ tục hành chính cùng với ý thức trách nhiệm, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức ở một số sở, ngành, địa phương có nhiều yếu kém, thiếu sót, song chậm được xử lý, là nguyên nhân trực tiếp tạo ra rào cản cho quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ chung của thành phố, gây phiền hà, bức xúc cho công dân, doanh nghiệp.
Cải cách tư pháp mới đạt kết quả bước đầu, còn một số nội dung, nhiệm vụ chưa đạt yêu cầu đề ra. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí tuy đã được quan tâm, song còn thiếu chiều sâu, chưa vững chắc; tình trạng tham nhũng, lãng phí còn xảy ra ở một số cấp, ngành.

1.3. Năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh còn thấp. Môi trường đầu tư chưa tạo sức hấp dẫn cao. Các thị trường cơ bản được hình thành song chưa đồng bộ và hoàn chỉnh, quy mô nhỏ, tính minh bạch, lành mạnh của thị trường còn thấp; sản phẩm còn nghèo nàn, nhất là các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao, đạt chuẩn quốc tế.

1.4. Tình trạng ô nhiễm môi trường
Vấn đề bảo vệ môi trường đã được quan tâm nhưng việc đầu tư xử lý còn chậm, chưa bảo đảm yêu cầu phát triển, nhất là môi trường đô thị. Môi trường đô thị còn bị xâm hại nghiêm trọng nhưng chưa có giải pháp xử lý kịp thời các vi phạm, ý thức bảo vệ môi trường của một bộ phận người dân và doanh nghiệp chưa cao. Công tác quản lý nhà nước về môi trường, đánh giá tác động môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường các dự án có lúc còn hình thức, thiếu công cụ kiểm soát, chế tài xử lý.
Môi trường ở khu vực nông nghiệp, nông thôn còn chưa được quan tâm quản lý, xử lý kịp thời.
Sự phát triển tự phát của việc nuôi cá lồng bè ở khu vực Cát Bà, sự quá tải các phương tiện tàu thuyền hoạt động trên vùng biển, xả thải của các nhà máy chế biến thủy hải sản chưa được kiểm soát, rác thải từ hoạt động du lịch… đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái biển.
1.5. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn trọng điểm và khu vực nông thôn còn diễn biến phức tạp. Ý thức về đảm bảo quốc phòng-an ninh của một bộ phận nhân dân chưa cao. Công tác đối ngoại và an ninh đối ngoại có mặt còn hạn chế, hiệu quả chưa tương xứng; đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại còn nhiều bất cập.

2. Nguyên nhân
2.1. Nguyên nhân khách quan
Do biến đổi khí hậu, thời tiết, dịch bệnh diễn biến phức tạp, nắng nóng bất thường, hạn hán gây thiếu điện trong những tháng đầu năm và những hậu quả của suy thoái kinh tế chưa được khắc phục hoàn toàn đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân.
Với vai trò là cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, cửa ngõ chính ra biển của các tỉnh phía Bắc đã trở thành áp lực lớn đối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ... của thành phố.

2.2. Nguyên nhân chủ quan
Chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ, chính quyền chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Chỉ đạo, điều hành cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của Trung ương, Thành uỷ còn chậm. Chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện các Nghị quyết. Hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành quản lý nhà nước của một số cấp, ngành, địa phương, cơ sở còn nhiều yếu kém, nhất là trong các lĩnh vực quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường.
Năng lực tham mưu, quản lý điều hành của một số sở, ngành còn thiếu quyết liệt gây chậm trễ trong giải quyết công việc đặc biệt trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng; việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở một số địa phương chưa kiên quyết, thiếu chủ động. Một số sở, ngành chưa phát huy được vai trò quản lý đa ngành, đa lĩnh vực sau khi được sắp xếp lại theo các nghị định của Chính phủ.
Nhận thức và năng lực của một số lãnh đạo Sở, ngành, địa phương, một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cải cách hành chính. Chế độ chính sách, điều kiện làm việc của cán bộ, công chức còn hạn chế. Chưa thực sự kiên quyết xử lý đối với tình trạng phiền hà, sách nhiễu trong thực thi công vụ.

IV. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Một là, phát huy toàn diện, đồng bộ và có hiệu quả tiềm năng, vị thế của thành phố Cảng; quan tâm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Hai là, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, ủng hộ giúp đỡ của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương.
Ba là, chủ động tăng cường hợp tác giữa các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm.
Bốn là, chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và nền kinh tế; chủ động hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại và tranh thủ sự giúp đỡ của các nhà tài trợ lớn.
Năm là, tập trung chỉ đạo, điều hành xử lý khâu yếu, các tắc nghẽn như giao thông, thủ tục hành chính, thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao… Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển.

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Đan Đức Hiệp

Đọc thêm