Sẽ làm rõ trường hợp người được TGPL có khó khăn về tài chính
Cục trưởng Cục TGPL Nguyễn Thị Minh cho biết, Dự thảo Nghị định quy định chi tiết 05 nội dung mà Luật giao cho Chính phủ, bao gồm: điều kiện khó khăn về tài chính của người được TGPL; tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước, Chi nhánh của Trung tâm TGPL nhà nước; chế độ chính sách của trợ giúp viên pháp lý, thù lao, chi phí đối với luật sư, cộng tác viên; thù lao, chi phí thực hiện vụ việc TGPL của tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp; cộng tác viên tham gia TGPL.
Riêng về quy định điều kiện khó khăn về tài chính của người được TGPL, theo bà Minh, đây là một vấn đề mới trong pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu và để áp dụng trong lĩnh vực TGPL, dự kiến đưa ra căn cứ dựa trên thu nhập hàng tháng là “địa vị”, tình trạng thường xuyên, lâu dài và không có cơ chế khác để được bảo vệ mình trước pháp luật của 08 nhóm người được quy định tại khoản 7 Điều 7 của Luật nhằm xác định điều kiện có khó khăn về tài chính. Mặt khác, việc quy định chi tiết về điều kiện có khó khăn về tài chính được đặt trong bối cảnh Luật TGPL đã quy định 14 nhóm người thuộc diện được TGPL (Bộ Tư pháp ước tính có khoảng 40 triệu người).
Do đó, để bảo đảm tính khả thi quyền được TGPL của người dân, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, Dự thảo Nghị định đã đưa ra 02 điều kiện được coi là có khó khăn về tài chính như sau: Là người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật. Trong đó, người thuộc hộ cận nghèo là điều kiện theo phương diện tiếp cận về thu nhập của người được TGPL. Còn các đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng là điều kiện theo phương diện tiếp cận chính sách an sinh xã hội cho một trong những nhóm người được hưởng chế độ bảo trợ xã hội.
Như vậy, 08 nhóm người được quy định tại khoản 7 Điều 7 Luật TGPL phải đáp ứng 02 yêu cầu để được TGPL: thuộc 1 trong 8 nhóm người được quy định tại khoản 7 Điều 7; thuộc 1 trong 2 điều kiện được quy định chi tiết tại Nghị định này. Dự kiến số lượng của 08 nhóm người có khó khăn về tài chính là khoảng 2,7 triệu người.
Cũng theo bà Minh, trong quá trình soạn thảo, có một số ý kiến đề xuất bổ sung những người không thể tiếp cận được tài sản của mình hoặc của gia đình, người có khó khăn đột xuất... thuộc trường hợp có điều kiện có khó khăn về tài chính. Tuy nhiên, việc xác định điều kiện có khó khăn về tài chính để được hưởng TGPL cần phải dựa trên các căn cứ về thu nhập và “địa vị”, tình trạng như đã nêu trên, nhất là đặt trong bối cảnh điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn như hiện nay. So với hiện hành, số lượng người được TGPL theo Luật TGPL năm 2017 đã tăng lên rất nhiều nên quy định như Dự thảo Nghị định là phù hợp.
Về nội dung trên, tại cuộc họp Hội đồng thẩm định mới đây, đa số thành viên Hội đồng nhất trí với quy định của Dự thảo Nghị định. Phát biểu kết luận vấn đề này, Thứ trưởng Lê Tiến Châu cũng tán thành phải làm rõ điều kiện khó khăn về tài chính bởi nếu mở rộng người được TGPL sẽ làm tăng nguồn lực thực hiện.
2 năm không thực hiện tư vấn pháp luật sẽ bị thu hồi thẻ cộng tác viên
Một trong những lực lượng thực hiện TGPL cho các đối tượng không thể không quan tâm chính là đội ngũ cộng tác viên. Trên cơ sở được Luật giao theo quy định tại Điều 24 Dự thảo Nghị định đã chi tiết hóa việc công nhận cộng tác viên; cấp, cấp lại thẻ cộng tác viên TGPL, sử dụng, thu hồi thẻ. Theo đó, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 2 Điều 24 Luật TGPL, nếu tự nguyện làm cộng tác viên TGPL thì gửi hồ sơ đến Trung tâm ở địa phương nơi mình cư trú. So với quy định hiện hành, thủ tục công nhận cộng tác viên TGPL có sửa đổi và bổ sung yêu cầu giấy tờ chứng minh đã nghỉ hưu để phù hợp với quy định về điều kiện làm cộng tác viên tại Điều 24 Luật TGPL.
Dự thảo Nghị định cũng làm rõ các trường hợp thu hồi thẻ cộng tác viên. Cụ thể là thu hồi thẻ cộng tác viên thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 24 Luật TGPL (trong đó thời hạn không thực hiện tư vấn pháp luật mà không có lý do chính đáng được quy định là 02 năm để bảo đảm phù hợp với tinh thần của Luật TGPL); thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật TGPL hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động TGPL nhưng chưa đến mức bị thu hồi thẻ mà còn tiếp tục có hành vi vi phạm; chấm dứt theo hợp đồng thực hiện TGPL.