Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền
PV: Luật Thủ đô phân cấp, phân quyền và giao quyền cho Thành phố Hà Nội khá nhiều cơ chế, chính sách đặc thù. So với Luật Thủ đô hiện hành thì Luật (sửa đổi) có những quy định đặc thù nào?
Ông Trần Anh Đức: Luật Thủ đô được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2012 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2013. Luật Thủ đô quy định về vị trí, vai trò, trách nhiệm và chính sách xây dựng, phát triển, bảo vệ Thủ đô, được các bộ, ngành, địa phương, nhất là thành phố Hà Nội tích cực, chủ động triển khai thi hành Luật.
Tuy nhiên, qua hơn 10 năm thi hành Luật Thủ đô, việc thực hiện một số mục tiêu, giải pháp, quy định đề ra trong Luật còn nhiều tồn tại, hạn chế trong các lĩnh vực như: (i) xây dựng, hoàn thiện thể chế và quản lý thực hiện quy hoạch chung, quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành; (ii) quản lý, sử dụng đất, nhất là đất sử dụng cho các công trình hạ tầng kỹ thuật, giao thông, hạ tầng xã hội, văn hóa, tôn giáo, công trình công cộng phục vụ cộng đồng, dân cư; (iii) cơ chế tài chính, chính sách liên kết vùng, nhất là các chính sách thu hút nguồn lực, thu chi ngân sách để thúc đẩy đầu tư phát triển; (iv) quản lý dân cư, bảo vệ Thủ đô, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; (v) chính sách an sinh xã hội, phát triển giáo dục, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường…
Luật Thủ đô (sửa đổi) lần này nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý; xây dựng cơ chế đặc thù; khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình thi hành để xây dựng, phát triển Thủ đô Hà Nội với vị trí, vai trò là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn; phát triển nhanh, bền vững, có sức lan tỏa để thúc đẩy vùng đồng bằng Sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước cùng phát triển.
Theo đó quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội hoặc khác với pháp luật hiện hành để tạo thuận lợi cho Thủ đô phát triển hoặc khai thác tốt các thế mạnh của Thủ đô như Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu “Xây dựng một số cơ chế, chính sách đặc thù và phân cấp cho chính quyền Thủ đô Hà Nội thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết công việc phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặc thù của Thủ đô, trọng tâm là các lĩnh vực đầu tư, tài chính, quy hoạch, đất đai, quản lý trật tự xây dựng, giao thông, môi trường, dân cư, tổ chức bộ máy, biên chế…”.
Hoàng thành Thăng Long được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 2010. Ảnh: Shutterstock |
Luật Thủ đô 2012 đã có các cơ chế đặc thù về quy hoạch, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, quản lý và bảo vệ môi trường, đất đai, nhà ở, quản lý dân cư, co chế về tài chính… Luật Thủ đô (sửa đổi) tiếp tục kế thừa các quy định còn phù hợp của Luật Thủ đô 2012 và bổ sung nhiều cơ chế, chính sách đặc thù như y tế, an sinh xã hội, nông nghiệp, các cơ chế thu hút nguồn lực đầu tư (cho phép áp dụng phương thức đối tác công tư trong lĩnh vực văn hóa, thể thao; phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng; cơ chế thử nghiệm có kiểm soát…); tách dự án bồi thường giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập; quản lý tài sản công… Cơ chế, chính sách đặc thù trong từng lĩnh vực cũng được quy định cụ thể theo hướng trao quyền chủ động hơn cho chính quyền Thành phố.
Bên cạnh các cơ chế chính sách đặc thù thì dự thảo Luật cũng đã đẩy mạnh việc phân quyền cho chính quyền Thành phố từ thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của các Bộ (hiện có 18 nội dung phân quyền từ thẩm quyền của cơ quan trung ương cho chính quyền thành phố Hà Nội); phân cấp, phân quyền giữa các cấp chính quyền của thành phố Hà Nội.
Đảm bảo tính nhất quán và xuyên suốt trong việc áp dụng pháp luật
PV: Một trong những mục tiêu, quan điểm xuyên suốt trong quá trình xây dựng Luật Thủ đô, đó là: quy định các cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để xây dựng, phát triển Thủ đô. Do đó, các quy định, chính sách tại dự thảo Luật Thủ đô có nhiều điểm vượt các luật hiện hành. Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) đã giải quyết vấn đề này như thế nào?
Ông Trần Anh Đức: Để giải quyết vấn đề này, dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) đã quy định 01 điều về áp dụng pháp luật với quan điểm: (i) Bảo đảm tính nhất quán và xuyên suốt trong việc áp dụng Luật Thủ đô trong hệ thống pháp luật hiện hành, vừa phát huy giá trị và hiệu lực của Luật Thủ đô, vừa bảo đảm nguyên tắc về hiệu lực của VBQPPL theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL, không phá vỡ tính ổn định, thống nhất của hệ thống pháp luật; (ii) Bảo đảm tính minh bạch, thuận lợi trong việc hiểu và áp dụng Luật Thủ đô. Trường hợp các luật, nghị quyết ban hành sau Luật Thủ đô không quy định cụ thể việc áp dụng luật, nghị quyết đó thì Luật Thủ đô được ưu tiên áp dụng.
Để bảo đảm thi hành có hiệu quả quy định này, dự thảo Luật bổ sung trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ phải phối hợp với chính quyền thành phố Hà Nội trong quá trình xây dựng VBQPPL có nội dung liên quan đến xây dựng, phát triển và quản lý Thủ đô.
Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm các bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo luật, nghị quyết (ngoài việc rà soát dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội với hệ thống pháp luật nói chung còn phải rà soát với Luật Thủ đô nói riêng để xác định những quy định có liên quan khác với quy định của Luật Thủ đô), qua đó hạn chế việc đưa ra những chính sách, quy định mâu thuẫn, chồng chéo thậm chí vô hiệu hóa các cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội của Luật Thủ đô. Mặt khác, dự thảo Luật quy định trách nhiệm của UBND thành phố Hà Nội trong việc tham gia ý kiến về các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội có quy định liên quan đến các chính sách, cơ chế đặc thù quy định tại Luật này.
Nhiều quy định đột phá về phát triển văn hoá, giáo dục
PV: Về phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục, dự thảo Luật cho phép Hà Nội có các cơ chế đột phá để phát triển văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ như cho phép cơ sở giáo dục công lập Thủ đô được liên kết với cơ sở giáo dục nước ngoài; phát triển công nghiệp văn hóa, ưu đãi phát triển khoa học công nghệ… ông đánh giá đây có phải là các quy định có thể giúp văn hóa, giáo dục Thủ đô “cất cánh” hay không?
Ông Trần Anh Đức: Dự thảo Luật đã có những quy định mang tính đột phá về phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ nhằm Hà Nội có các cơ chế đột phá để phát triển như cho phép cơ sở giáo dục công lập Thủ đô được liên kết với cơ sở giáo dục nước ngoài; ưu đãi phát triển khoa học công nghệ và một số ưu đãi vượt trội khác. Cụ thể:
Nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 15-NQ/TW về việc ưu tiên phát triển công nghiệp văn hoá, du lịch của Thủ đô thành ngành kinh tế mũi nhọn, nhất là du lịch văn hoá. Việc xây dựng Trung tâm công nghiệp văn hóa dựa trên tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô, kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá với phát triển kinh tế và giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá với mục tiêu phát triển công nghiệp văn hóa gắn với xây dựng Thành phố sáng tạo xứng tầm là trung tâm hội tụ, kết tinh văn hóa của cả nước và để đảm bảo tính khả thi, dự thảo Luật tập trung trong 6 lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp văn hóa để phát triển cũng như có các chính sách ưu đãi để thu hút nguồn lực xã hội (6 ngành công nghiệp văn hóa này theo quy định tại Điều 45 sẽ có các ưu đãi để thu hút đầu tư).
Về phát triển giáo dục, đào tạo, trong đó cho phép cơ sở giáo dục công lập Thủ đô được liên kết với cơ sở giáo dục nước ngoài; những quy định này được xuất phát từ thực tiễn thí điểm tại Thành phố thời gian qua cho thấy đây là chính sách đã phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Quy định đặc thù về liên kết giáo dục giúp học sinh Thủ đô tiếp cận và đạt tiêu chuẩn giáo dục quốc tế không phải qua con đường du học hoặc học ở các cơ sở giáo dục tư thục với chi phí cao hơn, giảm được rất nhiều chi phí xã hội, được nhiều phụ huynh học sinh đồng tình ủng hộ và tha thiết đề nghị tiếp tục; đồng thời, thực tiễn thí điểm cũng cho thấy khả năng, điều kiện của một số cơ sở giáo dục công lập Thủ đô có thể đáp ứng tốt việc liên kết giáo dục và vẫn đảm bảo yêu cầu chung của mục tiêu chính sách giáo dục quốc dân.
Thể chế hoá chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị về Thủ đô :” … Lấy khoa học công nghệ cao và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để phát triẻn kinh tế- xã hội Thủ đô; phát huy hiệu quả nguồn lực trí tuệ con người, đẩy mạnh ứng dụng KHCN và thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư… Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, KHCN, kết nối theo chuỗi giá trị với các doanh nghiệp trong vùng kinh tế và cả nước. Thu hút các tập đoàn đa quốc gia thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển đặt trụ sở tại Hà Nội”. Dự thảo Luật đã có những quy định để đẩy mạnh phát triển khoa học- công nghệ của Thủ đô như: (i) đổi mới mạnh mẽ/đột phá, tháo gỡ các ách tắc về cơ chế quản lý khoa học; (ii) xác định các lĩnh vực KHCN trọng điểm của Thủ đô (Điều 25, khoản 1) và áp dụng các ưu đãi nổi trội để thu hút, phát huy tối đa tiềm lực của các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức KHCN tham gia chủ trì, thực hiện nhiệm vụ KHCN trọng điểm; (iii) Cho phép thành phố Hà Nội áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong một số lĩnh vực; (iv) trao quyền cho TP Hà Nội lập quy hoach và xây dựng, phát triển các khu công nghệ cao, bao gồm cả khu nông nghiệp ứng dụng CNC và chuyển giao KCNC Hoà Lạc từ trung ương về Hà Nội quản lý, phù hợp với quy hoạch chung về KCNC của Thủ đô (Điều 26). Đây là một giải pháp quan trọng, nổi trội nhằm tạo cơ sở pháp lý, hạ tầng kỹ thuật và xã hội cần thiết thực hiện mục tiêu thu hút các tập đoàn đa quốc gia, các nhà đầu tư chiến lược trong lĩnh vực CNC thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển đặt trụ sở tại Hà Nội như Nghị quyết 15 -NQ/TƯ đã xác định…
PV: Về tài chính, ngân sách, dự thảo Luật cho phép Hà Nội giữ lại tối đa các khoản thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thuộc thẩm quyền Thành phố để tạo nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và các dự án, công trình trọng điểm…Đây có phải là mấu chốt tháo gỡ khó khăn cho Thủ đô phát triển không, thưa ông?
Ông Trần Anh Đức: Trong thời gian tới, để hướng tới mục tiêu: xây dựng và phát triển Thủ đô thực sự xứng đáng là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trái tim của cả nước; trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ và hội nhập quốc tế; xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn; phát triển nhanh, bền vững, có sức lan tỏa để thúc đẩy Vùng đồng bằng sông Hồng, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước cùng phát triểnnhư Nghị quyết số 15-NQ/TW đề ra thì yêu cầu về nguồn lực cho xây dựng và phát triển của Thủ đô là vô cùng lớn. Trong khi đó, tại Nghị quyết số 18-NQ/TW yêu cầu: “…Chính sách tài chính về đất đai phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư; có cơ chế điều tiết hợp lý, hiệu quả nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất giữa Trung ương và địa phương;…”. Theo chủ trương này, thời gian tới, khoản thu từ tiền sử dung đất, tiền thuê đất không còn là khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%. Tuy nhiên, để tạo nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và các dự án, công trình, dự án trọng điểm, có tính chiến lược của Thủ đô, Vùng Thủ đô, các dự án PPP, dự án giao thông công cộng, hỗ trợ di dời các cơ sở, đơn vị thuộc danh mục phải di dời để xây dựng Thủ đô Hà Nội là thành phố kết nối toàn cầu, có mức sống và chất lượng cuộc sống cao; kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển toàn diện, đặc sắc và hài hoà; tiêu biểu cho cả nước; có trình độ phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới như mục tiêu đã đề ra, theo đó, dự thảo Luật quy định: Ngân sách thành phố Hà Nội được giữ lại tối đa các khoản thu tiền sử dụng đất, tiền cho thuê đất thuộc thẩm quyền quản lý của Thành phố… Hằng năm, trên cơ sở báo cáo, đề xuất của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định tỷ lệ điều tiết cụ thể phù hợp với mục tiêu sử dụng nguồn vốn.
Đây sẽ là một trong những giải pháp có tính them chốt để tháo gỡ khó khăn cho Thủ đô. Kế hoạch giai đoạn 2021-2025, tổng nhu cầu chi của Thành phố giai đoạn 2021-2025 là 965 nghìn tỷ đồng, trong đó nhu cầu đầu tư cầu 650 nghìn tỷ đồng trong khi khả năng đáp ứng của ngân sách hiện nay chỉ đáp ứng được 45 đến 50% nhu cầu. Thành phố đầu tư các công trình giao thông trọng điểm với tổng mức khoảng 207 nghìn tỷ, và đang triển khai thủ tục chuẩn bị đầu tư một số tuyến đường sắt đô thị. Đây là các dự án quan trọng, cụ thể hóa quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, quy hoạch giao thông thành phố đã được Thủ tướng phê duyệt, thúc đẩy phát triển KT-XH, tăng cường liên kết vùng, góp phần phát triển KT-XH. Do vậy, để bảo đảm nguồn lực cho xây dựng và phát triển Thủ đô, đặc biệt nhu cầu đầu tư ổn định cho dự án hạ tầng kỹ thuật và xã hội quy mô lớn và có tính chất liên kết Vùng Thủ đô như các tuyến đường Vành dai 4, Vành đai 5, các tuyến đường sắt đô thị…
PV: Trân trọng cảm ơn ông!