Chuyện tình cổ tích của người thủy thủ Đoàn tàu không số

(PLO) - Chiến sĩ Đỗ Xuân Tâm của Đoàn tàu không số năm xưa tạm biệt người vợ thân yêu của mình lên đường làm nhiệm vụ đặc biệt sau 3 ngày trăng mật biền biệt cách xa. Để rồi cuộc hội ngộ bất ngờ không hẹn ước sau 10 năm cách trở, không có tiếng khóc nghẹn ngào, chỉ có ánh mắt thẳm sâu của người vợ và vòng tay siết chặt của người chồng như thay lời muốn nói: Mười năm không gặp ta vẫn chờ nhau. 
Tàu không số mật hiệu 187 chở vũ khí vào Nam. (Ảnh tư liệu)
Tàu không số mật hiệu 187 chở vũ khí vào Nam. (Ảnh tư liệu)
Câu chuyện về chuyện tình lãng mạn của chiến sĩ tàu không số Đỗ Xuân Nam một lần nữa khắc sâu trong lòng những người còn sống về đức hi sinh quên tình riêng vì nghĩa lớn của dân tộc
Chuyến đi trong niềm thương nhớ
Để tiếp tục chi viện vũ khí trang bị cho chiến trường miền Nam đánh thắng giặc Mỹ, con tàu không số mang mật danh 187 được lệnh vượt biển sang cảng Hậu Thủy - Trung Quốc tiếp nhận vũ khí trang bị chở vào miền Nam. Trước khi đi Tâm báo cáo đơn vị xin nghỉ 7 ngày phép cưới vợ. Đám cưới thời chiến của chiến sĩ tàu không số với cô Bí thư chi đoàn 21 tuổi Nguyễn Thị Xuân giản dị, chỉ có bánh kẹo, thuốc lá Sông Cầu, trầu cau. 
Cô dâu mặc quần lụa, áo lon trắng, chú rể mặc quần xanh, áo xanh nõn chuối, đóng phăng. Ngày ấy cô dâu không có hoa cưới, chỉ có chiếc túi bốn quai, cầm cho đỡ ngượng ngày về nhà chồng. Trong đó cái gương, cái lược, chứ không có nhẫn vàng, vòng bạc như bây giờ.
Ông Tâm cưới vợ được đến ngày thứ 3, thì có lệnh đơn vị triệu tập cho chuyến vượt biển mới. Ngày tạm biệt, chị Xuân nghẹn ngào rơi lệ tiễn chồng ra đầu ngõ, ông Tâm cầm tay vợ nói “Anh đi không hẹn ngày về, nhưng em hãy tin nhất định anh sẽ sống và luôn ở bên em”. Tâm ôm vợ và khoác ba lô ra đi trong niềm thương nhớ ấy.
Vợ chồng ông Đỗ Xuân Tâm ngày mới cưới
Vợ chồng ông Đỗ Xuân Tâm ngày mới cưới
Ngày 11/6/1966 từ Cống Đông - Quảng Ninh, con tàu không số mang mật danh 187 vượt biển ra khơi, chở đầy ắp tình yêu quê hương đất nước của 18 thủy thủ. Thuyền trưởng là Phan Xã, Chính trị viên là Lê Công Thương, ông Tâm là thủy thủ. Chuyến đi này, cấp trên tăng cường “cố vấn” thuyền trưởng Dương Tấn Kịch là người rất giỏi thiên văn địa lý và Chính trị viên Hồ Đức Thắng. 
Sau 8 ngày lênh đênh trên hải phận quốc tế và vòng trách sự lùng soát của tàu địch, chiều 19/6/1966, tàu 187 đã  bắt được liên lạc với Côn Đảo, nhưng do trời nhá nhem tối, nên tàu không thể vào bến được. Để bảo đảm bí mật và an toàn, thuyền trưởng Phan Xã đã quyết định cho tàu thả trôi. Bỗng trên trời có tiếng gầm rú, rồi chiếc máy bay trinh sát của địch từ đâu xuất hiện. Chúng bay vòng đi, vòng lại rồi dừng lại phía ca-bin chụp ảnh. 
Mặc cho chúng chụp, các chiến sĩ giả vờ như không biết, việc ai nấy làm, người câu cá, người nấu ăn, người xách nước, người tắm giặt, người vá lưới. “Tình huống lúc đó gay cấn lắm nhưng tất cả anh em đều rất bình tĩnh. Tôi thì đang nấu ăn trong bếp. Khi máy bay sà xuống thấp, tôi nhìn rõ tên phi công địch. Tôi còn cầm chiếc đùi gà to giơ lên. Một tên địch nhìn tôi nhoẻn miệng cười”. Ông Tâm nhớ lại.
Do đi trong đêm tối, không có hải đồ và để giữ bí mật, tàu không được phép phát tín hiệu nhiều lần. Vì vậy, ngay cả đến khi tàu vào gần sát bờ cũng không biết đi hướng nào cho đúng, bến Vàm Ba Động phía trước chỉ là phán đoán theo kinh nghiệm. Đúng lúc đó, Hồ Đức Thắng bảo rằng: “Anh Kịch ơi, anh nhầm rồi, tôi xin lấy tính mạng của mình mà đảm bảo rằng đây không phải là Vàm Ba Động”. 
Hai cố vấn kỳ cựu - một người dựa vào kiến thức thiên văn, một người dựa vào kinh nghiệm đều cho rằng nhận định của mình là chính xác. Khi đó, Chi uỷ Chi bộ tàu 187 tổ chức hội ý chớp nhoáng, xác định lại phương hướng và tìm bến cập tàu, nhưng không ai có phương án tối ưu vì chưa ai khẳng định chắc chắn bến Vàm Ba Động là ở phía trước. Cuối cùng, chi uỷ thống nhất xin ý kiến trên. Cấp trên điện chỉ đạo “Tìm ngư dân để hỏi”. 
Ngay sau đó tàu gặp một chiếc ghe, trên ghe có một ông già khoảng ngoài 60 tuổi và một cậu bé hơn 10 tuổi. Những thuỷ thủ giọng miền Nam cất tiếng: “Ông cho hỏi đây là ở đâu, có phải Vàm Ba Động không?”. Do hoảng hốt nên ông già chưa kịp nói câu nào, còn cậu bé thì sợ quá, chỉ biết khóc. Ông già ngư dân chưa kịp trả lời, bỗng trên trời tiêng máy bay ầm ầm xuất hiện, chúng nhào tới thả một loạt pháo sáng rồi bắn xối xả vào tàu. Thuyền trưởng Phan Xã chỉ huy các thủy thủ bình tĩnh chiến đấu, nhân viên cơ yếu phát tín hiệu báo cáo cấp trên tàu đã bị lộ. Cấp trên chỉ lệnh “hủy tàu”. 
Đúng lúc đó thì tàu mắc cạn. Tình huống nguy cấp quá, trời đã sáng rõ, tàu địch từ hướng Bắc lao tới bắn dữ dội. Không còn cách nào khác, phải hủy tàu để giữ con đường bí mật. Thuyền trưởng Phan Xã lệnh cho máy trưởng Vũ Sơn An khẩn trương lắp kíp bộc phá để hủy tàu, còn tất cả các thủy thủ rời ràu nhảy xuống biển, tìm cách bơi vào bờ, bí mật liên lạc với nhân dân, xin ứng cứu. 
Bơi vào được bờ, nhưng tàu chưa hủy được. Không thể để tàu rơi vào tay địch, thuyền trưởng Phan Xã đã bắt liên lạc với đồng chí Tư Mau (tức Phan Văn Nhờ, khi đó là Đoàn phó Đoàn 962 của Quân khu 9), điều hai khẩu ĐKZ tới bắn vào tàu. Hai làn đạn DKZ vang dậy cả một vùng rộng lớn mà con tàu chỉ bốc cháy chứ không nổ. 
Sau khi 18 chiến sĩ bơi vào bờ, mỗi người thất lạc một nơi. Có người gặp được cơ sở của ta, người thì thất lạc vào rừng. Ba ngày sau, thuỷ thủ tàu 187 được người dân địa phương và bộ đội đơn vị 962 tìm kiếm, gom về căn cứ. Tất cả 18 anh em thì chỉ tập hợp được 16 người, chính trị viên Lê Công Thương hy sinh ngay trên bãi cát cửa Vàm Ba Động, thuỷ thủ Trần Quang Phiêu - Hàng hải số 1 - bị trúng đạn gãy chân trên bãi cát và bị địch bắt. 
Riêng báo vụ Phan Thành Duyên bị lạc vào rừng mắm. Sau 4 ngày đêm không nước, không cơm đã nhặt lá dừa khô, tìm một gò cao để kê lên, chờ chết, rất may là anh em đơn vị 962 đã tìm thấy và kịp thời cứu sống.
Sau chuyến đi ấy, ông Tâm và đồng đội nhận lệnh của Đoàn 125 hành quân bộ sang Campuchia để từ đó ra Bắc, nhưng khi vừa đặt chân tới biên giới thì tình hình chính trị Campuchia có biến động, cả đoàn quay về rừng đước Cà Mau chờ thời cơ. Nào ngờ, ông và nhiều đồng đội đã phải chờ đợi tới cả chục năm trên vùng đất Mũi sình lầy ấy.
Ông Đỗ Xuân Tâm ( ảnh do ông Tâm cung cấp)
Ông Đỗ Xuân Tâm ( ảnh do ông Tâm cung cấp) 
10 năm nhớ thương
Quãng thời gian 10 năm biền biệt xa người vợ trẻ, cũng là 10 năm hai vợ chồng ông Tâm không được phép viết cho nhau một dòng thư nhắn gửi. Ông bảo, hồi xin nghỉ phép 7 ngày về cưới vợ, ai cũng bảo anh chàng này “đánh nhanh rút gọn”, nhưng thực ra trước đó ông đã báo cáo với đơn vị về “một nửa” của mình là cô gái 21 tuổi Nguyễn Thị Xuân - người cùng quê và đang là Bí thư Thị đoàn Đồ Sơn. 
Hôm tổ chức, đơn vị còn chu đáo cho xe và cử cán bộ về cùng lo liệu đám cưới. Cũng như nhiều chuyến đi trước, khi bước chân lên tàu, ông Tâm và các đồng đội của ông đều phải để lại mọi thứ liên quan, từ tên tuổi, quê hương gia đình cho đến cả người thân cũng phải giấu. 
Những ngày ông xa nhà, chị Nguyễn Thị Xuân có đến Đoàn 125 để hỏi tin tức chồng, nhưng lần nào cũng chỉ nhận được thông báo ngắn gọn: Chồng đang đi công tác xa nhà. Chị lại trở về trong niềm nhớ thương khắc khoải. Còn ông Tâm trong suốt thời gian hoạt động trong vùng rừng đước Cà Mau, ông hoàn toàn bặt tin gia đình. 
Kể từ ngày chia tay người vợ mới cưới (3/3/1965) để nhận nhiệm vụ trên tàu 187 cho tới ngày đất nước thống nhất, đúng 10 năm ròng rã ông bặt vô âm tín. Có những lúc ông nghĩ, vợ ông chắc không còn nữa, đã lấy chồng khác hoặc có thể hi sinh. Nhưng ông Tâm luôn đau đáu nhớ về người vợ trẻ. Ông nghĩ, dù 10 năm hay 20 năm, ông vẫn yêu vợ và mong ngày trở về đoàn tụ gia đình. 
Ngày ấy miền Bắc bị máy bay Mỹ oanh tạc dữ dội. Nghe trên đài tiếng nói Việt Nam phát bản tin thành phố Hải Phòng, Quảng Ninh bị bom đạn Mỹ oạnh tạc tàn phá, tim ông như thắt lại, lòng ông như lửa đốt. Ông thương cho người vợ mới cưới sau 3 ngày trăng mật phải xa cách biệt ly. Càng nhớ thương, ông càng lao vào chiến đấu và hi vọng chiến thắng trở về.
Một ngày trung tuần tháng 6 năm 1975 sau ngày đất nước giải phóng, lúc đó chừng 1 giờ chiều, ông Tâm và anh em đơn vị đang học Nghị quyết tại hội trường thì được thông báo có đoàn khách của Bộ Tư lệnh Hải quân và Đoàn 125 vào thăm. Đồng chí trực ban đơn vị tới gặp riêng Đỗ Xuân Tâm, bảo: “Anh Tâm ơi, lãnh đạo đơn vị còn đưa cả chị Xuân vào thăm anh đấy!”. Tâm phân vân “Không lẽ là cô ấy thật. Chẳng nhẽ đó là vợ mình 10 năm không gặp”. 
Chiếc xe U oát của đoàn khách đỗ xịch trước sân đơn vị, một cô gái tay cầm chiếc nón lá miền Bắc bước ra khỏi xe. “Đúng vợ mình thật rồi”. Tâm ào chạy lại gần vợ. Chẳng ai nói được câu gì. Thay lời tình yêu là cái nhìn sâu thẳm của Xuân và vòng tay siết chặt của Tâm trước tiếng vỗ tay của đồng đội. 
Sau này, khi hỏi vợ tại sao trong phút giây trùng phùng sau hàng nghìn ngày xa cách ấy mà em không hề rơi nước mắt?. Bà Xuân trả lời: “Từng ấy năm em đã khóc thầm vì mòn mỏi đợi chờ, hy vọng nên bao nhiêu nước mắt đã lặn hết vào tim em rồi”.  
Nói về chuyện xa vợ đằng đẵng 10 năm, ông Tâm bảo “10 năm đợi chờ cũng là thước đo chung thủy. Ngày ấy, chiến tranh liên miên, tình yêu phần lớn đã giành cho Tổ quốc, còn đối với tình cảm riêng tư chỉ là thứ yếu thôi. Tình yêu sau mười năm không gặp tình chừng đã cũ, nhưng không, với tôi cho đến bây giờ vẫn vẹn nguyên như ngày mới cưới”.

Đọc thêm