Sáng 16/10, trường ĐH Luật Hà Nội tổ chức Hội thảo đóng góp ý kiến hoàn thiện dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Dưới nhiều góc độ, các bài tham luận đóng góp ý kiến tại Hội thảo đã được các tác giả viết và trình bày rất công phu, tâm huyết với mong muốn hoàn thiện dự thảo văn kiện khi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đang đến gần.
Để quyền lực nhà nước được thống nhất
Bàn về vấn đề nội hàm và thể hiện nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, GS. TS Đinh Văn Mậu – Học viện Hành chính đã có sự hệ thống các Hiến pháp Việt Nam từ trước đến nay để làm cơ sở nhìn nhận. Theo đó, trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959,1980 và 1992 đã có sự khác nhau về quy định quyền lực Nhà nước. Từ những sự khác nhau này, GS.TS Đinh Văn Mậu đưa ra nhận định: “Chỉ khi nào ghi nhận tất cả quyền lực trong nước thuộc về nhân dân thì mới xây dựng được các thiết chế kiểm soát hữu hiệu quyền lực nhà nước”.
Tương đồng với ý kiến này, PGS.TS Nguyễn Minh Đoan – Khoa Hành chính nhà nước, ĐH Luật HN cũng cho rằng một khi đã “bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thì quyền lực nhà nước sẽ luôn thống nhất…Nếu tất cả các cơ quan, công chức nhà nước đề cao chủ quyền nhân dân, luôn vì hạnh phúc nhân dân, không vì lợi chí của chính cơ quan, cá nhân mình thì quyền lực nhà nước sẽ luôn thống nhất”.
Còn theo PGS.TS Vũ Thư – Viện Nhà nước pháp luật thì “về mặt pháp lý, Nhà nước Việt Nam đang được tổ chức quyền lực theo nguyên tắc tập quyền XHCN, còn về mặt chính trị thì đã theo nguyên tắc phân quyền” và “để diễn đạt nguyên tắc phân quyền trong văn kiện ĐH Đảng, không nhất thiết phải chỉ rõ rằng quyền lực trong Nhà nước Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc phân quyền mà chỉ cần thể hiện các yếu tố trong tổ chức quyền lực.
Đó là: Quyền lực nhà nước là thống nhất; Có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được tổ chức có tính độc lập trong bộ máy nhà nước; Có sự giám sát, kiểm tra nhà nước giữa các quyền”. Sự độc lập của quyền hành pháp không bao giờ phá vỡ tính thống nhất của quyền lực nhà nước, bởi vì “quyền lập pháp thể hiện ý chí chung của quốc gia, quyền hành pháp thì thực hiện ý chí chung ấy” như tinh thần của Văn kiện Đại hội Đảng IX, PGS.TS Vũ Thư nhấn mạnh.
Tăng cường năng lực cho cơ quan tham mưu về công tác nội chính
Dưới góc độ vấn đề cải cách tư pháp, tố tụng trong Dự thảo báo cáo chính trị của Đại hội Đảng XI, giảng viên Nguyễn Văn Hợi – Khoa Pháp luật Dân sự, ĐH Luật Hà Nội đưa ra ý kiến, “ở phần hạn chế, khuyết điểm trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng X (tiểu mục 5 phần I, mục B), mới chỉ đề cập đến những yếu kém trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật.
Nhưng vấn đề đặt ra đó là phải chỉ ra nguyên nhân của những yếu kém là gì, và cùng với đó là phải đưa ra giải pháp khắc phục. Những giải pháp được đưa ra trong dự thỏa cũng chỉ mới mang tính định hướng chứ chưa đề cập đến biện pháp nào mang tính khả thi”. Giảng viên Nguyễn Văn Hợi đã dẫn ra một ví dụ đơn cử, như Dự thảo đã đề cập đến vấn đề công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác.
Tuy nhiên, Dự thảo cũng mới chỉ dừng lại ở sự đề cập một cách chung nhất mà chưa chỉ ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Trong khi đó, nguyên nhân nổi cộm nhất là do trong xét xử hiện nay còn phụ thuộc vào cấp trên, tức là còn có sự chỉ đạo của cơ quan cấp trên hoặc cơ quan công quyền trong hoạt động xét xử của tòa án, làm cho nguyên tắc xét xử độc lập không thể hiện được ý nghĩa chính xác của nó. Bên cạnh đó, trình độ của hội thẩm nhân dân hiện nay còn rất hạn chế, thậm chí nhiều người chưa qua một lớp đào tạo cơ bản về pháp luật…
Bàn về vấn đề hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực tư pháp, giảng viên Nguyễn Văn Khoa – Khoa Lý luận chính trị, ĐH Luật HN cho rằng tính đặc thù của hoạt động tư pháp thể hiện ở nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Vì vậy, để hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực tư pháp cần theo một số phương hướng như: quy chế hóa chức năng nhiệm vụ, mối quan hệ của cấp ủy Đảng trong hệ thống cơ quan tư pháp và các cơ quan bổ trợ tư pháp, quy chế hóa sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp với nhau; tăng cường năng lực cho các cơ quan tham mưu của Đảng về công tác nội chính, trong đó có tư pháp; đề cao vai trò của cá nhân Đảng viên tham gia vào các hoạt động điều tra, công tố, xét xử…
Đặc biệt, về phương hướng đề cao vai trò của cá nhân Đảng viên tham gia vào các hoạt động điều tra, công tố, xét xử, NQ 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp cũng đã quy định trách nhiệm của tổ chức Đảng và cá nhân Đảng viên đối với từng vụ án, từng công việc của tố tụng. Làm tốt được chuyện đó mới có thể hạn chế tình trạng núp danh quyền lãnh đạo của Đảng để can thiệp vào hoạt động tư pháp vì lợi ích riêng của cá nhân người lãnh đạo
Hồng Minh