Điều chỉnh cơ cấu kinh tế thành phố đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế

Được thành lập từ năm 1888, Hải Phòng là một trong 3 đô thị lớn nhất của Việt Nam lúc đó với vị trí địa chính trị quan trọng của khu vực và cả nước. Trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển, đặc biệt là sau 55 năm giải phóng (13- 5- 1955- 13- 5- 2010), Hải Phòng luôn thể hiện sự năng động, sáng tạo, đi đầu trong mọi lĩnh vực và đạt nhiều thành tựu đáng tự hào, nằm trong tốp đầu của cả nước về nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội quốc phòng, an ninh.

Được thành lập từ năm 1888, Hải Phòng là một trong 3 đô thị lớn nhất của Việt Nam lúc đó với vị trí địa chính trị quan trọng của khu vực và cả nước. Trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển, đặc biệt là sau 55 năm giải phóng (13- 5- 1955- 13- 5- 2010), Hải Phòng luôn thể hiện sự năng động, sáng tạo, đi đầu trong mọi lĩnh vực và đạt nhiều thành tựu đáng tự hào, nằm trong tốp đầu của cả nước về nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội quốc phòng, an ninh. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập  quốc tế, phát triển bền vững, cùng cả nước, Hải Phòng không thể tự bằng lòng, dừng lại mà phải tiếp tục đột phá với tốc độ cao hơn, đạt kết quả toàn diện hơn, phát triển không chỉ vì Hải Phòng mà còn vì trách nhiệm trước cả nước. Đây cũng chính là thời điểm thành phố cần đánh giá lại mình và yêu cầu cơ cấu lại nền kinh tế thành phố là một trong những mục tiêu được Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 14  tập trung thảo luận.

 

Khu công nghiệp Đình Vũ đang thu hút các nhà đầu tư Ảnh: Duy Lân

Khu công nghiệp Đình Vũ đang thu hút các nhà đầu tư

Ảnh: Duy Lân

Nhìn lại 55 năm xây dựng, phát triển và giai đoạn 10 năm trở lại đây

 

Nhìn lại 55 năm qua, đặc biệt là trong 5 năm trở lại đây, kinh tế Hải Phòng tăng trưởng liên tục, toàn diện với tốc độ khá cao ( trung bình khoảng 11,15%/ năm). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, trong đó công nghiệp - dịch vụ đạt hơn 90%, riêng dịch vụ đạt trên 53%. Công nghiệp Hải Phòng có bước phát triển vượt bậc, hình thành nhiều khu, cụm công nghiệp, nhà máy lớn. Hải Phòng là một trung tâm đóng tàu, sản xuất thép, xi măng, da giày, dệt may, trung tâm sản xuất điện, vật liệu xây dựng của cả nước.

 

Điều phấn khởi là trong 10 năm qua, Hải Phòng đã tạo được những cơ hội phát triển mới được Chính phủ công nhận là đô thị loại 1, đô thị trung tâm cấp quốc gia; Bộ Chính trị ra NQ 32 về xây dựng và phát triển Hải Phòng trong thời kỳ CNH- HĐH; Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh chung xây dựng Hải Phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến 2050. Hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội được quan tâm đầu tư xây dựng, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều đề tài, dự án nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, phát triển công nghệ được thực hiện, đem lại hiệu quả rõ rệt. Năng lực cạnh tranh ( PCI) được nâng lên, năm 2009 tăng 10 bậc so với năm 2008. Y tế, Giáo dục đạt nhiều thành tựu quan trọng, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển nhân lực và chăm sóc sức khỏe nhân dân, là một trung tâm lớn của vùng và miền Bắc. Môi trường sống được quan tâm và cải thiện. Việc xử lý ô nhiễm, khắc phục sự cố môi trường được coi trọng. Công tác phòng tránh và khắc phục hậu quả thiên tai có nhiều kết quả. Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu được chủ động triển khai thực hiện…

 

Căn cứ các mục tiêu đề ra, Hải Phòng đang có bước phát triển mạnh mẽ, nhiều chỉ tiêu kinh tế đã đạt và vượt kế hoạch đề ra. Nhưng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang đặt thành phố trước những cơ hội và thách thức mới, nhất là giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2009 vừa qua, các nước trong khu vực đều nghiên cứu tái cấu trúc lại nền kinh tế. Theo chỉ đạo của Chính phủ, việc khẩn trương tái cơ cấu lại nền kinh tế thành phố là yêu cầu khách quan, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. 

 

Trong 10 năm ( 2001 - 2009), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tại thành phố đạt hơn 4,3 tỷ USD với nhiều dự án từ 28 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Sản lượng hàng hóa qua Cảng Hải Phòng không ngừng tăng nhanh, vượt xa so với dự báo tới năm 2015 khi năm 2009 đã vượt gấp đôi so với sản lượng năm 2006, đạt hơn 33,3 triệu tấn và năm 2010 dự báo đạt khoảng 35- 37 triệu tấn. Kim ngạch xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 19- 20%/ năm, ước năm 2010 đạt 1,94 tỷ USD. Từ là thành viên của câu lạc bộ 1000 tỷ  năm 2005, những năm gần đây, số thu nội địa của Hải Phòng tăng với tốc độ cao năm 2010 dự kiến đạt hơn 6.000 tỷ đồng, đưa tổng số thu ngân sách trên địa bàn năm 2010 đạt 37.200 tỷ đồng, đứng thứ 4 cả nước về số thu nộp ngân sách và là một trong 11 địa phương có số thu nộp về Trung ương.

 

Về bối cảnh và yêu cầu điều chỉnh cơ cấu kinh tế thành phố

 

Tác động từ yếu tố bên ngoài

Thế giới hiện nay, khoa học công nghệ đang là lực lượng sản xuất hàng đầu, là tiêu chí chủ yếu của lực lượng sản xuất tiên tiến. Khoa học và công nghệ thông tin đang phát triển, lớn lên không ngừng là lực lượng chủ đạo cho kinh tế tăng trưởng bền vững, khoa học sự sống và công nghệ sinh học phát triển mạnh mẽ, phát huy tác dụng then chốt cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, khoa học và công nghệ năng lượng mở ra con đường mới để giải quyết những vấn đề về năng lượng và môi trường của thế giới, khoa học và công nghệ nano sẽ lần lượt có những đột phá mới, sẽ dẫn tới cuộc cách mạng công nghệ sâu sắc. Những đột phá to lớn trong nghiên cứu cơ bản sẽ đem lại viễn cảnh mới cho phát triển kinh tế kỹ thuật.

 

Cùng với thế giới, Việt Nam đang tiến tới nền kinh tế tri thức. Đây là nền kinh tế dựa vào sự phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông. Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi với  xu hướng ngày càng đi sâu vào các lĩnh vực. Hầu hết hoạt động kinh tế và xã hội đều dựa vào cơ sở thông tin qua mạng thông tin điện tử, đều được tin học hoá, hay số hoá. CNTT đã trở thành công cụ, phương tiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế xã hội.

 

Sự xuất hiện thương mại điện tử; Chính phủ điện tử; làm việc từ xa, các văn phòng ảo, chữa bệnh trên mạng ( chữa bệnh từ xa), giáo dục từ xa… sẽ gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế, yêu cầu các địa phương phải chuyển đổi, cơ cấu lại. Internet đã làm cho chi phí lập một đơn hàng giao dịch giảm 10 lần; giá thành trong ngành sản xuất ô tô giảm 12 – 15 lần, trong ngành xây dựng giảm 7 – 8 lần.

 

Tác động và những yêu cầu khách quan từ bên trong nội tại cơ cấu kinh tế thành phố

Một là, chất lượng tăng trưởng chưa thực sự bền vững, chủ yếu dựa vào tăng trưởng theo chiều rộng do phát triển về số lượng, chưa theo chiều sâu. Cơ cấu kinh tế phát triển theo hướng tự phát, chưa có sự cân đối phát trong cơ cấu giữa các ngành, lĩnh vực, giữa các vùng, khu vực. Việc sử dụng cạn kiệt các nguồn tài nguyên làm ảnh hưởng hệ sinh thái và ô nhiễm nguồn nước, môi trường nước, không khí, đất…

 

Do vị trí địa chính trị, địa kinh tế đặc thù, thành phố Hải Phòng là nơi được các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty lớn trong nước lựa chọn làm nơi đầu tư như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) , Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinaline)vv… Sự phát triển của các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty trong thời gian qua đã thúc đẩy kinh tế thành phố tăng trưởng và phát triển với tốc độ khá cao và đã trở thành một bộ phận cấu thành của cơ cấu kinh tế thành phố không thể tách rời như Tập đoàn công nghiệp và tầu thủy Việt Nam (Vinashin) trên địa bàn thành phố khi chiếm tỷ trọng hơn 50% sản lượng đóng mới và sửa chữa các phương tiện nổi của Tập đoàn.Vừa qua,  do tác động của khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới, đồng thời do năng lực, kinh nghiệm quản lý, đầu tư đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của Tập đoàn và từ đó tác động đến cơ cấu kinh tế như cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động, cơ cấu sản phẩm của thành phố.

 

Hai là, năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn còn nhiều hạn chế. Số đơn vị đạt tiêu chuẩn chất lượng, môi trường quốc tế (ISO, TQM, HACCP…) còn ít trong khi đây là giấy thông hành đi vào thị trường thế giới. Môi trường đầu tư còn nhiều bất cập, thiếu mặt bằng sạch đủ kết cấu hạ tầng. Việc đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân lao động còn lúng túng về cơ chế chính sách ,về vốn, về đất đai và các chính sách khác. Thành phố còn thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao. Cụ thể, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra 64  chỉ số KEI (chỉ số kinh tế tri thức), dựa trên 3 tiêu chí: mức độ đổi mới hệ thống giáo dục;  mức độ đổi mới hệ thống công nghệ thông tin, truyền thông;  mức độ đổi mới về thể chế, độ mở của nền kinh tế, dân chủ, khuyến khích đổi mới, tạo môi trưòng cạnh tranh lành mạnh… thì chỉ số KEI của Việt Nam mới đạt 3,17 xếp thứ 102 trên thế giới, thuộc nhóm trung bình kém.

 

Ba là,  cải cách hành thủ tục chính tuy đứng thứ 3 cả nước nhưng qua 4 năm hội nhập quốc tế thấy bộc lộ một số điểm yếu như cải cách hành chính chậm hơn tốc độ đổi mới kinh tế; cải cách bộ máy quản lý chậm hơn cải cách doanh nghiệp;  cải cách thủ tục chậm hơn yêu cầu thực tiễn; các cơ chế chính sách luôn bất cập chậm sửa đổi, điều chỉnh. Một bộ phận cán bộ công chức chưa thực sự tận tụy, công tâm, thạo việc, bệnh hành chính rất nặng không hiểu yêu cầu  cuộc sống thực tiễn đang đặt ra.

 

Như vậy, nền kinh tế thành phố với mục tiêu giai đoạn 2011- 2015 là phát triển kinh tế với tốc độ nhanh và bền vững trên cơ sở tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập quốc tế, tăng nhanh hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản phẩm. Trong đó, thành phố tập trung 3 đột phá lớn gồm:  Chú trọng xây dựng kết cấu hệ thống hạ tầng đồng bộ với một số công trình trọng điểm quốc gia và thành phố, tập trung vào đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, cầu, cảng, sân bay, khu công nghiệp, các khu, cụm công nghiệp đô thị lớn và tạo một môi trường cạnh tranh bình đẳng minh bạch;  Phát triển nguồn nhân lực, tập trung nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng yếu của thành phố và  tập trung cải cách hành chính…

 

Mục tiêu và nội dung tái cơ cấu kinh tế thành phố

 

Để xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, trước hết cần làm tốt công tác quy hoạch và xây dựng mô hình kinh tế thành phố. Theo quyết định số 1448 / QĐ-TTg ngày 16- 9- 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, Hải Phòng là đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc gia, có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội và  quốc phòng, an ninh của vùng Bắc bộ và cả nước; là thành phố Cảng, cửa chính ra biển quan trọng của quốc gia, là đầu mối giao thông quan trọng vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, là trung tâm kinh tế - khoa học - kỹ thuật  tổng hợp của vùng duyên hải Bắc bộ và là trung tâm phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

 

Từ mục tiêu trên, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội  của thành phố phải bảo đảm gắn kết chặt chẽ với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 của đất nước là bảo đảm sự hài hòa, đồng bộ với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng, phát huy tiềm năng vị thế của từng địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm, tạo sức mạnh tác động lan tỏa thúc đẩy sự phát triển chung.  Tuy nhiên, sẽ tiến hành một số điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu phát triển mới. 

 

Thứ nhất, thành phố tập trung xây dựng mục tiêu tăng trưởng huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực để đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao, bền vững và liên tục; tiếp tục phát triển theo hướng hội nhập, định hướng xuất khẩu và kết nối có hiệu quả với kinh tế thế giới đồng thời coi trọng thị trường trong nước. Thành phố chỉ đạo đổi mới và đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp, dịch vụ; rà soát, đánh giá đúng các ngành, sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có khả năng đóng góp lớn vào tăng trưởng để tạo điều kiện phát triển; xác định một số ngành, sản phẩm trọng điểm, chủ lực để tập trung cao đầu tư, phát triển mạnh, đứng vững tại thị trường nội địa và có thương hiệu, thị phần trên thị trường quốc tế.

 

Thành phố phối hợp chặt chẽ với các Tập đoàn, các Tổng công ty tập trung rà soát đánh giá các dự án đang đầu tư trên địa bàn về tính khả thi và năng lực tài chính để đẩy nhanh tiến độ theo quy hoạch về cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động, cơ cấu sản phẩm của thành phố.

 

Thứ hai, thành phố phát triển hợp lý các ngành có công nghệ cao, giảm chi phí sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng và vật tư nguyên liệu trong sản phẩm, tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nhằm đẩy nhanh thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Theo đó, cần xây dựng chính sách khuyến khích thu hút, huy động đầu tư, cân bằng hơn giữa đầu tư cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, giữa công nghệ cao và công nghệ sử dụng nhiều lao động, giữa sản xuất trực tiếp và gia công, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn lực như mặt bằng, hạ tầng, vốn, thông tin, lao động... nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thu hút đầu tư, khơi dậy các nguồn lực, phát huy có hiệu quả các yếu tố tiềm năng, thế mạnh của thành phố, xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư theo hướng sử dụng tiết kiệm tài nguyên và đóng góp tích cực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

 

Bên cạnh đó, cần phát triển mạnh mẽ các dịch vụ tư vấn trong đầu tư chuyển giao công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ, doanh nghiệp phải coi hoạt động R& D là nhiệm vụ hàng đầu; tiến hành thường xuyên đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, đổi mới dịch vụ khách hàng, khuyến khích doanh nghiệp thành lập quỹ phát triển khoa học công nghệ  và các bộ phận nghiên cứu, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp như nhiều Tập đoàn, Tổng công ty và doanh nghiệp đang thực hiện tạo sức cạnh tranh tốt.

 

Thứ ba là tập trung nâng cao chất lượng nhân lực, chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào nhân lực khoa học công nghệ, nhân lực lao động kỹ thuật đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, có tính đi trước đón đầu, từng bước tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế, được sử dụng có hiệu quả, thoả mãn nhu cầu về nhân lực của thành phố cho tất cả các lĩnh vực công tác, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Đồng thời, tích cực tham gia vào quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có bản lĩnh, góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khoá 10. Thành phố đang triển khai các Đề án đào tạo giám đốc doanh nghiệp thích ứng yêu cầu hội nhập; Đề án nâng cao năng lực quản lý quy hoạch, quản lý xây dựng cho cán bộ, công chức liên quan ở các cấp, các ngành thành phố; Đề án 100… nhằm hướng tới các mục tiêu này.

 

Thứ tư là phát triển và ứng dụng mạnh mẽ, rộng rãi công nghệ thông tin trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đây là động lực mạnh mẽ thúc đẩy, đổi mới và phát triển tiến vào nền kinh tế tri thức. Thành phố bảo đảm các điều kiện cho mọi công dân, tổ chức, các doanh nghiệp có điều kiện sử dụng thông tin như một nguồn tài nguyên quan trọng để nâng cao tri thức và chất lượng sống; xây dựng mạng thông tin có đường truyền tốc độ cao, kết nối mạng interrnet đồng thời với việc xây dựng Chính phủ điện tử, điều hành qua mạng, phát triển thương mại điện tử, phát huy vai trò của cổng thông tin điện tử….

 

Thứ năm là thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng. Theo đó, thay đổi mô hình sản xuất là đẩy mạnh sản xuất phục vụ xuất khẩu song song với khuyến khích sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, hàng tiêu dùng, hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp tăng cường áp dụng mô hình sản xuất sạch hơn để giảm tiêu hao năng lượng, giảm tiêu hao nguyên vật liệu, giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính.

 

Muốn vậy, điều quan trọng là hướng các mô hình sản xuất  bảo đảm pháp luật về bảo vệ môi trường và được chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường, có chính sách quản lý sản phẩm trong suốt quá trình tồn tại của chúng và quản lý chất thải đúng theo quy định của pháp luật, áp dụng thành công và được cấp chứng chỉ ISO 14001 về quản lý môi trường, tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, nhiên liệu, lượng nước sử dụng so với mức tiêu thụ chung, tham gia và có đóng góp tích cực các chương trình nâng cao nhận thức cộng đồng, bảo vệ môi trường công cộng…

 

Cùng với đó, cần thay đổi mô hình tiêu dùng bằng các biện pháp sử dụng bền vững nguồn tài nguyên, vừa bảo đảm phát triển kinh tế vừa hạn chế xu hướng tiêu dùng tài nguyên gây suy thoái môi trường hiện nay. Vì vậy, để phát triển bền vững, thành phố cần nỗ lực đảo ngược các xu thế tiêu dùng phá hoại hệ sinh thái, khí hậu, các nguồn cung cấp lương thực, nước và sức khỏe hiện nay; thay đổi các giá trị và các nguyên tắc tác động trực tiếp đến chiến lược phát triển và lối sống, khuyến khích sử dụng hàng sản xuất trong nước, các mặt hàng được sản xuất theo quy trình, công nghệ hoặc nguyên vật liệu thân thiện môi trường.

 

Thứ sáu, tăng trưởng kinh tế là nhằm mục tiêu nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống cho người dân thành phố. Bảo đảm an sinh xã hội là mục tiêu lâu dài và tiếp tục vẫn là mối quan tâm của nhân dân và toàn xã hội trong bối cảnh biến động kinh tế thế giới và khu vực còn nhiều bất ổn. Nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các hộ nghèo cải thiện cuộc sống, vươn lên thoát nghèo, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, thành phố đã, đang và sẽ triển khai nhiều giải pháp nhằm đảm bảo an sinh xã hội, trong đó tập trung vào các hoạt động: giảm nghèo, giải quyết việc làm, nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn, phát triển giáo dục mầm non, mở rộng độ tuổi hưởng chế độ hỗ trợ người cao tuổi, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân…

 

Vấn đề cấu trúc lại cơ cấu kinh tế thành phố Hải Phòng đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đang đứng trước những cơ hội và những thách thức to lớn. Để đạt mục tiêu cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp về các cơ chế chính sách và các giải pháp thích ứng trong bối cảnh hiện nay.

 

Tiến sĩ  Nguyễn Văn Thành

Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng

Đọc thêm