Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và Luật Thuế tài nguyên (gọi chung là Dự thảo) đề xuất đưa nước ngọt vào diện chịu thuế TTĐB với thuế suất 10% nhằm mục tiêu chính là bảo vệ sức khoẻ nhân dân do tác hại của tình trạng thừa cân, béo phì.
Đây là một mục tiêu hợp lý, vì sức khoẻ cộng đồng, lợi ích công cộng. Tuy nhiên, hiện nay chưa có đánh giá cụ thể hơn về việc, liệu việc đánh thuế ở mức 10% đối với nước ngọt như vậy sẽ làm giảm hoặc làm chậm tốc độ tăng tỷ lệ béo phì ở Việt Nam là bao nhiêu? Đây là yếu tố quan trọng nhất để cân nhắc về hiệu quả của chính sách thuế.
Bên cạnh đó, theo ý kiến của nhiều người, cũng cần tiên liệu một số tác động tiêu cực của chính sách này. Các tác động đó có thể bao gồm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của các gia đình tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp và người nông dân trong một số lĩnh vực nông nghiệp.
Cụ thể, mức thuế 10% có thể không ảnh hưởng nhiều đến các gia đình ở thành thị, nhưng sẽ là tác động đáng kể đối với khả năng chi tiêu của nhiều gia đình tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Thuế đối với nước ngọt có thể sẽ không chỉ tước đi niềm vui của các em nhỏ nông thôn mà còn có thể làm chậm tiến trình xoá suy dinh dưỡng trẻ em.
Ngoài ra, thuế nước ngọt còn ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp và người nông dân. Theo cách đánh thuế đề xuất của Bộ Tài chính, không chỉ các doanh nghiệp sản xuất nước giải khát, các doanh nghiệp mía đường, nông dân trồng mía chịu ảnh hưởng, mà có thể ảnh hưởng cả những doanh nghiệp, nông dân trong các ngành cà phê, chè, trái cây, thậm chí cả sữa (mặc dù sản phẩm sữa không bị đánh thuế nhưng nếu đánh thuế cà phê sữa, trà sữa, sữa trái cây thì có).
Đơn cử ngành công nghiệp Mía đường, hiện nay, thuế GTGT đối với đường chỉ là 5%. Nói cách khác, Nhà nước có chính sách ưu đãi thuế đối với ngành Mía đường nhằm bảo đảm quyền lợi của người nông dân trồng mía. Thế nhưng cũng chính sản phẩm đường đó, pha vào nước đóng chai thì lại phải chịu thuế TTĐB, tức là Nhà nước không khuyến khích. Như vậy, ở đây đã thể hiện một sự thiếu nhất quán về chính sách.
Chính vì thế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) – đại diện cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam - đã kiến nghị cơ quan soạn thảo chưa đánh thuế đối với nước ngọt cho đến khi có nghiên cứu đầy đủ hơn về tình trạng béo phì và hiệu quả của chính sách thuế đối với việc giảm béo phì tại Việt Nam.
Nếu sau khi nghiên cứu và kết luận rằng đánh thuế có tác dụng hiệu quả để hạn chế béo phì thì cũng chỉ nên đánh thuế đối với nước ngọt có hàm lượng đường cao, vượt quá ngưỡng nhất định, tương tự như cách làm của Singapore. Phương pháp này vừa giúp tránh đánh thuế đối với một số sản phẩm có hàm lượng đường tự nhiên mà nhà sản xuất không thể tách ra được, vừa đúng với mục đích đánh thuế vì nếu hàm lượng đường thấp thì không thể là nguyên nhân gây béo phì.
Đồng thời, cần xác định rõ hơn các khái niệm nước trái cây 100% tự nhiên, khái niệm sữa, cà phê sữa, chè sữa, sữa trái cây… để chính sách thuyết phục, có tính khả thi.