|
TS. Nguyễn Đình Cung |
- Lãi suất giảm là điều rất cần cho DN, nhưng dư địa thực tế không nhiều, và đây cũng là nút thắt với nền kinh tế. Thời gian vừa rồi đã thảo luận nhiều về vấn đề này. Nhưng theo tôi, không dễ giảm lãi suất, bởi cần phải nhìn ở mức chênh lệch giữa lãi suất huy động – lãi suất cho vay và dự báo lạm phát.
Nếu chỉ nhìn thấy chênh lệch lãi suất huy động và cho vay thì thấy có khả năng hạ lãi suất, tình hình chung của hệ thống ngân hàng là tốt nhưng tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại khác nhau, các món vay mới không nhiều do mức độ hấp thụ vốn chưa tốt; lượng trái phiếu phát hành ra và các khoản huy động vốn khác của Chính phủ đang quá lớn; khả năng tỷ giá đồng USD tăng và dù sao chúng ta vẫn phải duy trì một mức chênh lệch tỷ giá nhất định để hạn chế tình trạng USD hóa…
Vì vậy, hạ lãi suất khó có thể diễn ra trên diện rộng mà chỉ thông qua vận động một số ngân hàng thực hiện và đối với một số đối tượng vay vốn, khó có thể căng đều việc hạ lãi suất cho tất cả. Để hạ lãi suất cũng cần có các biện pháp hỗ trợ như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi VND cho các ngân hàng thực hiện hạ lãi suất. Như vậy, tùy theo trường hợp cụ thể thì vẫn có dư địa.
Như ông vừa nói, lãi suất giảm thì mới tăng cung tín dụng, và khả năng tăng cung tín dụng ở năm 2015 như thế nào?
- Tôi thấy tín dụng đang chịu sức ép lớn bởi quá nhiều chương trình tín dụng theo mục tiêu và chính sách tiền tệ vẫn đang phải gánh thêm một số chức năng của chính sách tài khóa, nên làm méo mó thị trường tín dụng. Theo tôi, nên bỏ mục tiêu tín dụng hàng năm, hãy để cung tín dụng đi theo cầu của thị trường, đừng đặt mục tiêu tín dụng cho hệ thống ngân hàng để rồi trở thành một mục tiêu thành tích vì “lượng”, hãy nhìn tín dụng ở “chất”, ở hiệu quả.
Hãy để các tổ chức tín dụng chủ động hơn theo định hướng thị trường nhiều hơn trong tìm kiếm khách hàng và phân bổ tín dụng. Tôi đề nghị hãy để ngành ngân hàng điều hành tín dụng phải gắn với mục tiêu ổn định lãi suất trong trung và dài hạn, dựa trên nền tảng ổn định lạm phát ở mức thấp (để neo kỳ vọng, tạo niềm tin cho nhà đầu tư).
Nợ xấu vẫn đang là vấn đề “nóng” và theo ông, nên có sự thay đổi quan trọng nào để giải quyết nợ xấu?
- Để giải quyết nợ xấu, có 3 vấn đề cần trả lời: nợ xấu là bao nhiêu và ở đâu, lấy tiền đâu để xử lý nợ xấu, tức là để bù đắp cho số vốn đã “mất” của các tổ chức tín dụng và thiết lập thị trường mua bán nợ như thế nào.
Tôi ưu tiên giải quyết vấn đề thứ 3: Phải thiết lập thể chế thị trường mua bán nợ theo thị trường đầy đủ bằng cách ban hành một đạo luật đặc biệt. Điều này hoàn toàn làm được trong bối cảnh hiện nay vì nền kinh tế tương đối ổn định. Thiết lập được thị trường mua bán nợ đầy đủ nợ sẽ được giải quyết dần dần và đúng bản chất.
Có ý nói để có luật này phải sửa 10 luật khác, nhưng theo tôi không khó và có luật đặc biệt này chỉ 5 năm có thể xử lý hết nợ xấu và khi nợ xấu đã giải quyết xong, luật sẽ hết hiệu lực, như vậy không phải sửa các luật khác. Theo cách này, không đòi hỏi phải trả lời tận tường thực sự nợ xấu là bao nhiêu nhưng vẫn dần xử lý hết nợ xấu.
Trở lại vấn đề ông vừa nêu “chính sách tiền tệ đang phải gánh một số chức năng của chính sách tài khóa, vậy nên kết hợp chính sách tài khóa và tiền tệ như thế nào?
- Cho đến nay, chính sách tiền tệ ít độc lập và phải “chạy theo” chính sách tài khóa. Trong khi chính sách tài khóa thì hầu như luôn mở rộng, tài khóa mở rộng thì tiền tệ không thể thắt chặt. Theo tôi, sắp tới đây, chính sách tài khóa cần chủ động thắt chặt trong trung hạn: không cố định chỉ tiêu mức thâm hụt ngân sách nhà nước ở con số 5% GDP mỗi năm mà phải có giảm chỉ tiêu cùng cam kết trả nợ, tránh tư duy “tiêu cho hết dự toán”, như thế phải giảm nợ công, giảm phát hành trái phiếu Chính phủ.
Giảm phát hành trái phiếu Chính phủ để giảm chèn lấn dư địa tiếp cận tín dụng của khu vực tư nhân. Giảm phát hành trái phiếu cũng là giảm áp lực cho nợ công, tạo điều kiện hạ lãi suất tín dụng và mở đường cho nới lỏng tiền tệ - tăng tín dụng…
Chỉ khi tài khóa thắt chặt, tiền tệ mở thì thị trường vốn mới vận hành đúng nghĩa, mới tạo được đột phá trong phân bổ nguồn lực, làm cho thị trường đóng vai trò quan trọng hơn trong huy động và phân bổ vốn đầu tư. Như thế, vi mô sẽ hoạt động tốt hơn và vốn sẽ chạy về khu vực có hiệu quả cao hơn là tập trung vào khu vực nhà nước như hiện nay…Tất nhiên, còn một điều kiện quan trọng là hệ thống ngân hàng phải tái cơ cấu nhanh để tăng hiệu quả truyền tải chính sách tiền tệ.
Xin cảm ơn ông!