Theo đó, các bị can bị truy tố gồm:
1: Bùi Minh Chính (SN 1961), nguyên Chủ tịch HĐQT Công ty Petroland;
2: Phạm Thúy Nga (SN 1977), nguyên Kế toán trưởng Công ty Petroland;
3: Nguyễn Tư Khánh (SN 1976), nguyên Giám đốc sàn giao dịch Bất động sản Công ty Petroland;
4: Nguyễn Thị Hoàng Yến (SN 1976), nguyên Trưởng bộ phận kinh doanh Sàn giao dịch Công ty Petroland;
5: Nguyễn Bá Hội (SN 1972), nguyên Giám đốc Công ty TNHH đầu tư và xây dựng Khôi Nguyên;
6: Nguyễn Thế Công (SN 1981), nguyên Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư và phát triển Bình An.
7: Dương Công Thọ (SN 1981, trú tại huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh);
8: Nguyễn Thị Ngọc Tuyền (SN 1982, trú tại huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh),
9: Lê Tú Phương (SN 1972, trú tại phường Tân Phú, quận 7, TP Hồ Chí Minh);
Ngoài ra, trong vụ án này do hai bị can Ngô Hồng Minh nguyên Chủ tịch HĐQT Petroland và Trần Hữu Giang nguyên Ủy viên HĐQT, Phó Giám đốc Công ty Petroland, kiêm Giám đốc Sàn giao dịch Bất động sản (BĐS) Công ty Petroland đang bỏ trốn nên Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an cũng đã ra quyết định truy nã 2 bị can gồm về tội danh trên.
Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an đã ra quyết định tách hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại về tài sản cho Petroland của bị can Minh và Giang thành vụ án khác để tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.
Các bị can trong vụ án (Ảnh: ANTĐ) |
Hồ sơ vụ án thể hiện, từ năm 2012 đến năm 2017, Minh, Chính và Giang đã bàn bạc, thống nhất lập hồ sơ thanh toán phí dịch vụ tư vấn khống, gồm: Hợp đồng dịch vụ môi giới; chứng từ thanh toán, hóa đơn GTGT... đối với dự án Trung tâm Thương mại- Tài chính Dầu khí Phú Mỹ Hưng tại số 12, Tân Trào, phường Tân Phú, quận 7, TP Hồ Chí Minh (gọi tắt là Tòa nhà Petroland Tower) để lấy tiền phục vụ các khoản cho cá nhân trong Ban lãnh đạo Petroland; chi tiếp khách, tặng quà, chi tiền cho một số cán bộ thuộc các sở, ban, ngành thuộc UBND TP Hồ Chí Minh làm hồ sơ liên quan đến các dự án xây dựng, phê duyệt thủ tục nhà đất, chung cư của Petroland.
Vào cuối năm 2012, để hợp thức hóa thủ tục, chứng từ rút tiền của Công ty Petroland trái phép, Chính và Giang đã bàn bạc việc tạo dựng hồ sơ khống về việc thanh toán phí dịch vụ môi giới BĐS và tư vấn thủ tục hoàn công, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu (GCNQSH) đối với dự án Tòa nhà Petroland Tower.
Sau đó, từ năm 2012 đến năm 2017, Chính đã chỉ đạo Giang liên hệ, móc nối với nhiều công ty bên ngoài và chỉ đạo các nhân viên Sàn giao dịch Bất động sản (BĐS) Petroland là Nguyễn Tư Khánh; Nguyễn Thị Hoàng Yến lập khống 17 hợp đồng và 1 phục lục hợp đồng dịch vụ tư vấn, môi giới bất động sản khống với 7 công ty; duyệt, ký 40 Ủy nhiệm chi và các chứng từ liên quan khống đến chuyển tiền từ 3 tài khoản của Petroland tại Vietcombank cho 7 công ty trên, với tổng số tiền trên 50 tỷ đồng.
Từ năm 2013 đến 2017, Phạm Thúy Nga biết 8 hồ sơ đề nghị thanh toán được hợp thức hóa, 7 hồ sơ thiếu thủ tục so với quy định, nhưng vẫn ký thanh toán tiền cho doanh nghiệp.
Cụ thể, Nga đã ký khống biên bản cuộc họp giữa Công ty Petroland và khách hàng; ký giấy đề nghị thanh toán, Ủy nhiệm chi trong 15 hợp đồng và 1 phụ lục hợp đồng khống, gây thiệt hại cho Petroland hơn 41 tỷ đồng.
Đối với Nguyễn Tư Khánh, từ tháng 12/2012 đến tháng 12/2015 đã móc nối với Công, Thọ và Tuyền lập khống 9 bộ hồ sơ thanh toán 9 hợp đồng dịch vụ tư vấn tại Petroland Tower để Chính ký hợp thức hóa thủ tục rút tổng số tiền hơn 14 tỷ đồng theo chỉ đạo của Giang.
Từ tháng 5/2013 đến tháng 1/2016, Nguyễn Thị Hoàng Yến với vai trò Trưởng bộ phận kinh doanh, kiêm quản lý khách hàng của Tòa nhà Petroland Tower đã tham gia vào quá trình lập 13 bộ hồ sơ thanh toán “khống” để hợp thức hóa việc rút tiền của Petroland theo chỉ đạo của bị can Giang.
Ngoài ra, Yến còn tham gia ký khống hồ sơ liên quan; trực tiếp đưa văn bản và đề nghị khách hàng mua BĐS của Petroland ký khống giấy xác nhận môi giới thành công, mặc dù đây là khách hàng do Yến làm việc, tiếp xúc ngay từ đầu để tư vấn mua trực tiếp BĐS của Petroland tại dự án Tòa nhà Petroland Tower.
Kết thúc điều tra, cơ quan ANĐT Bộ Công an xác định có 17/21 hợp đồng dịch vụ tư vấn, môi giới giữa Công ty Petroland với 8 doanh nghiệp và 1 cá nhân là khống, gây thất thoát hàng trăm tỷ đồng.