Luật sư Phan Thông Anh kiến nghị thực hiện chế độ tự quản hoạt động luật sư

Sau hơn 05 năm triển khai thi hành Luật Luật sư, đội ngũ luật sư ở nước ta đã có những bước phát triển nhanh về số lượng cũng như chất lượng, hoạt động tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư ngày càng được nâng cao, công tác quản lý nhà nước kết hợp với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã đạt được những hiệu quả nhất định. 

Luật Luật sư số 65/2006/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/06/2006 đã tạo ra một khung pháp lý vô cùng quan trọng cho hoạt động của luật sư. Sau hơn 05 năm triển khai thi hành Luật Luật sư, đội ngũ luật sư ở nước ta đã có những bước phát triển nhanh về số lượng cũng như chất lượng, hoạt động tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư ngày càng được nâng cao, công tác quản lý nhà nước kết hợp với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã đạt được những hiệu quả nhất định. 

So với Pháp lệnh số 37/2001/PL-UBTVQH10 ngày 25/7/2001 về luật sư thì Luật Luật sư đã thể hiện rõ được vai trò của người Luật sư trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế triển khai thi hành, một số quy định của Luật Luật sư tỏ ra không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của nghề luật sư, cũng như các cam kết quốc tế của Việt Nam và các quy định của pháp luật khác có liên quan.
Trong bốn bản dự thảo sửa đổi Luật luật sư do Bộ tư pháp chủ trì, cùng với ý kiến đóng góp của Tiểu ban sửa đổi bổ sung Luật luật sư - Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã có những đề xuất thay đổi lớn trong các điều khoản Luật luật sư. Tuy nhiên để những thay đổi này phù hợp với hoàn cảnh xã hội và có những tư duy định hướng đúng đắn cho sự phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam thì những phản biện khoa học cần phải tích cực và có chiều sâu.
Với tư cách là thành viên trong Tiểu ban sửa đổi bổ sung Luật luật sư - Liên đoàn Luật sư Việt Nam và dựa trên bốn bản dự thảo vừa qua, quan điểm của tác giả có góc nhìn khác, có nội dung đồng thuận, có nội dung cần để xuất xem xét lại. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết lần này, tác giả chỉ tập trung phân tích những kiến nghị sửa đổi bổ sung Luật luật sư có liên quan đến "hoạt động tự quản của Luật sư và hành nghề Luật sư của tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư"
a
LS Phan Thông Anh
"Tự quản" có thể được hiểu là tự mình trông nom, quản lý công việc của mình, theo đó hoạt động tự quản của Luật sư và hành nghề Luật sư của tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư có thể được hiểu:  Luật sư tự giác tuân thủ các quy định của pháp luật và của tổ chức Luật sư khi hoạt động hành nghề và tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư tự giám sát kiểm tra hoạt động nghề nghiệp luật sư thông qua Điều lệ, các quy chế nội bộ và các quy định của pháp luật về luật sư.
Vấn đề “phát huy chế độ tự quản” của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp nói chung và của tổ chức luật sư nói riêng là chủ trương đã được Đảng ta khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và đã được thể chế hóa trong Luật Luật sư 2006 quy định như sau: (i) Về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư: đã quy định cụ thể vị trí, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của tổ chức luật sư toàn quốc;
Đồng thời quy định rõ thành viên của tổ chức luật sư toàn quốc là các Đoàn luật sư và các luật sư trong cả nước, chuyển giao cho tổ chức luật sư toàn quốc, các nhiệm vụ quyền hạn bao gồm : ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, cấp Thẻ luật sư, tổ chức bồi dưỡng thường xuyên nghiệp vụ chuyên môn cho luật sư, tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề, quy định mẫu trang phục, quy định việc miễn, giảm thù lao...đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc nâng cao vai trò tự quản của tổ chức luật sư. (ii).Trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư : " Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện tự quản luật sư và hành nghề luật sư theo quy định của Luật này và Điều lệ của mình. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư."
Chỉ sau hơn hai năm thành lập (từ tháng 05.2009 cho đến nay). Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã thể hiện vai trò tự quản thông qua các hoạt động : xây dựng và kiện toàn bộ máy hoạt động của Liên đoàn, ban hành các quy chế hoạt động, ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, cấp Thẻ luật sư, quy định mẫu trang phục, triển khai xây dựng Quy chế xử lý kỷ luật luật sư, tổ chức bồi dưỡng thường xuyên nghiệp vụ chuyên môn cho luật sư, tham gia bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Luật sư, tháo gỡ khó khăn trong việc xây dựng thực lực chính trị tại Đoàn Luật sư, kiến nghị UBND tỉnh hỗ trợ cơ sở vật chất cho Đoàn Luật sư , cùng với Đoàn Luật sư giải quyết khiếu nại của khách hàng đối với Luật sư ...đã từng bước khẳng định được vai trò đại diện của luật sư trong cả nước và phát huy tính tự quản của tổ chức luật sư.
- Về quản lý nhà nước : có thể hiểu là sự chỉ huy, điều hành xã hội của các cơ quan nhà nước để thực thi quyền lực nhà nước, thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Đối với sự quản lý của nhà nước về hoạt động hành nghề luật sư. Luật Luật sư 2006 đã quy định : (i) Về nguyên tắc quản lý hành nghề luật sư : " Quản lý hành nghề luật sư được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tư quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, bảo đảm việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư.” (điều 6/LLS.2006). (ii) Trách nhiệm quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư : Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư; giao cho Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư ở trung ương; Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư và UBND các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương đối với một số nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại điều 83/LLS.2006.
Trong năm năm qua các Đoàn Luật sư đã nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình với nhà nước nên đã kết hợp chặt chẻ với UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương thông qua Sở Tư pháp quản lý được hoạt động luật sư trên địa bàn, tham gia thực hiện các hoạt động tư vấn pháp luật cho các cơ quan nhà nước; trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối tượng chính sách, thực hiện các án chỉ định do các cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu, có các địa phương Sở Tư pháp và Đoàn Luật sư ký kết quy chế phối hợp hoạt động, quản lý tốt hoạt động của các tổ chức hành nghề trên địa bàn, đảm bảo sự tuân thủ các quy định của pháp luật của luật sư trong quá trình hành nghề...Nhưng cũng còn một vài địa phương do sự nhận thức về nội hàm quản lý nhà nước của Sở Tư pháp trong quản lý hoạt động luật sư tại địa phương chưa đúng nên Sở Tư pháp đã có những hành vi can thiệp quá sâu vào hoạt động tự quản của Đoàn luật sư đã gây ra những xung đột mâu thuẩn không đáng có giữa Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư với Lãnh đạo Sở Tư pháp.     
Để có thể phát huy tốt vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư cùng với cơ quan nhà nước quản lý hoạt động luật sư theo chúng tôi sửa đổi, bổ sung Luật luật sư lần này cần tập trung cho những vấn đề sau đây : 
1 - Tính tự quản trong tổ chức và thống nhất hành động : 
+ Phát triển và thống nhất tổ chức thành viên
Điều kiện tiền đề để thực hiện hoạt động tự quản là sự thống nhất tổ chức giữa các thành viên, theo Luật luật sư 2006 thì thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam bao gồm : các Đoàn Luật sư và Luật sư, tư cách thành viên này được xác lập và khẳng định ngay trong tên gọi của tổ chức luật sư toàn quốc là Liên đoàn Luật sư mà không gọi là Hiệp hội Luật sư điều đó có thể khẳng định thành viên đầu tiên phải là các đoàn luật sư nhưng trong dự thảo (4) sửa đổi bổ sung Luật luật sư của Bộ Tư pháp lại dự thảo bỏ Đoàn Luật sư ra ngoài không còn là thành viên của Liên đoàn Luật sư.
Ý kiến của Dự thảo về vấn đề này có những mâu thuẩn sau : (i)Phá vỡ khung pháp lý cơ cấu tổ chức của Liên đoàn Luật sư do chính Bộ Tư pháp xây dựng khi thành lập Liên đoàn Luật sư ; (ii) Phá vỡ cơ cấu Chủ nhiệm các Đoàn Luật sư là đương nhiên Ủy viên Hội đồng Luật sư toàn quốc; (iii) Đi ngược lại chính đề xuất của Bộ Tư pháp cho 62 Đoàn Luật sư áp dụng chung một bản Điều lệ chung của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, (iv) Làm mất đi tiếng nói, vai trò đại diện của Liên đoàn Luật sư đối với các Đoàn Luật sư tại các cơ quan trung ương, (v) Trở lại thời kỳ những khó khăn vướng mắc của các Đoàn Luật sư không có sự hỗ trợ tháo gở từ Liên đoàn Luật sư như khi chưa thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam.  
Nếu các Đoàn Luật sư không còn là thành viên của Liên đoàn Luật sư thì có thể nói Liên đoàn Luật sư sẽ tự giải thể vì thành viên duy nhất còn lại là Luật sư không được tham gia trực tiếp với Liên đoàn Luật sư mà tham gia phải thông qua Đoàn luật sư nơi mình gia nhập (Khoản 1 điều 64 " Thành viên của Liên đoàn luật sư Việt Nam là các luật sư. Các luật sư tham gia Liên đoàn luật sư Việt Nam thông qua Đoàn luật sư nơi mình gia nhập") mà theo dự thảo thì Đoàn Luật sư không phải là thành viên của Liên đoàn Luật sư được hiểu Luật sư cũng không thể tham gia theo sự thông qua này.Sự bất cập này trong dự thảo sẽ là nguy cơ, tạo tiền đề ngăn cản việc “phát huy chế độ tự quản” của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đây là tiền đề phá vỡ điều kiện tiên quyết về sự thống nhất tổ chức để thực hiện hoạt động tự quản của Luật sư Việt Nam.
Song song đó, theo quy định của pháp luật hiện hành thì tổ chức hành nghề luật sư không phải là thành viên của Liên đoàn Luật sư nên không chịu sự chi phối hoạt động phối hợp tự quản và không được sự hỗ trợ của Liên đoàn vì không phải là thành viên nên theo chúng tôi cần cân nhắc xem xét công nhận thành viên thứ ba này để tạo sức mạnh cho khối thống nhất của Liên đoàn Luật sư bao gồm : Đoàn Luật sư, Tổ chức hành nghề luật sư và Luật sư cùng nhau tự quản trong hoạt động nghề nghiệp.  
Trách nhiệm tự quản của Luật sư, của tổ chức hành nghề Luật sư và tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư có thể được tiếp cận ở góc độ là thực hiện thống nhất về chế độ quản lý nội bộ tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư thể hiện qua việc áp dụng chung một Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; xây dựng và áp dụng chung quy tắc xử lý kỷ luật luật sư và thống nhất áp dụng một bản điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho các Đoàn Luật sư trong cả nước. 
+ Ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam 
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam là ý chí, là trí tuệ của Hội đồng Luật sư toàn quốc tự mình thông qua để quy định cho luật sư thành viên những khuôn thước ứng xử, chuẩn mực đạo đức của luật sư để luật sư thực hiện trong quá trình hành nghề. Tính tự quản của tổ chức luật sư thể hiện rõ nhất là sự nhận thức đầy đủ của luật sư đối với Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, quy tắc quy định những giới hạn về đạo đức, những điều được làm, không được làm, quy tắc là khuôn thước để cho luật sư ứng xử đối với khách hàng, đối với đồng nghiệp, đối với các cơ quan tiến hành tố tụng...và là cơ sở pháp lý cao nhất để Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam xem xét xử lý kỷ luật luật sư khi có vi phạm đạo đức luật sư.
+ Xây dựng Quy chế xử lý kỷ luật luật sư
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam có thể xem là luật nội dung về kỷ luật luật sư, còn Quy chế xử lý kỷ luật luật sư có thể xem là luật hình thức quy định trình tự thủ tục xử lý kỷ luật luật sư, trước đây các Đoàn Luật sư quy định cách xử lý khác nhau dẫn đến sự không thống nhất trong cả nước.Việc xây dựng Quy chế xử lý kỷ luật luật sư có ý nghĩa nâng cao vai trò tự quản của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong hoạt động quản lý và thống nhất hành động của luật sư trong cả nước.
+ Cần áp dụng chung một bản điều lệ thống nhất của Liên đoàn Luật sư Việt Nam
Trước đây theo Luật luật sư 2006, mỗi Đoàn luật sư thực hiện quản lý riêng theo từng bản điều lệ khác nhau, vì thời điểm đó chưa có tổ chức luật sư toàn quốc như hiện nay. Vì vậy, từ năm 1987 cho đến nay các Đoàn Luật sư đã sử dụng 62 bản Điều lệ khác nhau. Điều này trên thực tế đã dẫn đến một tình trạng là quyền nghĩa vụ, hành vi và ứng xử của mỗi luật sư theo từng đoàn luật sư là khác nhau, sự tập hợp và quản lý Luật sư được thực hiện một cách tản mác và không thống nhất.
Bản Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam do Đại biểu Luật sư của cả nước thông qua tại Đại hội Liên đoàn Luật sư Việt Nam lần thứ nhất, nội dung của Bản Điều lệ đã thể hiện được ý chí thống nhất của luật sư cả nước và theo thông lệ của các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác thì chỉ sử dụng một bản điều lệ thống nhất từ tổ chức trung ương xuống đến tổ chức hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Sự sự tản mác, không thống nhất của các Đoàn Luật sư về điều lệ hoạt động, với tiền đề sẳn có là Bản Điều lệ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, sự áp dụng thống nhất như các các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác là dùng chung một bản điều lệ và nhằm nâng cao tính tự quản của tổ chức luật sư trong toàn quốc đã đến lúc cần có một sự thống nhất của các Đoàn luật sư trong cả nước cùng áp dụng chung một bản điều lệ thống nhất của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.Việc thống nhất một bản điều lệ tạo điều kiện bình đẳng áp dụng quyền và nghĩa vụ của Luật sư trên cả nước là như nhau. 
Tính tự quản trong tổ chức thống nhất hành động luật sư trong cả nước thể hiện sự tuân thủ của các đoàn luật sư, của luật sư khi học tập Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, sự đồng thuận xây dựng quy chế xử lý kỷ luật luật sư để áp dụng chung cả nước và sẽ là sự thống nhất cao nhất khi các đoàn luật sư trong cả nước sẽ áp dụng bản điều lệ chung của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.  
Ý nghĩa của tính tự quản trong tổ chức thống nhất sẽ cao hơn khi các Đoàn luật sư đồng thuận với nội dung Đoàn luật sư không được ban hành các quy định về phí và các khoản thu trái với quy định của pháp luật và Liên đoàn luật sư Việt Nam; không được ban hành các nghị quyết, quyết định và các quy định khác trái với Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam và ngược lại các Đoàn Luật sư sẽ trao thẩm quyền của Liên đoàn Luật sư Việt Nam  được quyền  đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những quy định, quyết định và nghị quyết của Đoàn luật sư trái với Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những quy định, quyết định và nghị quyết của Đoàn luật sư trái với quy định của Luật luật sư.
Từ nội dung phân tích trên chúng tôi kiến nghị sửa đổi một số nội dung trong Luật luật sư liên quan như sau :
Điều 64. Liên đoàn luật sư Việt Nam : Thành viên của Liên đoàn luật sư Việt Nam là các Đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư.Các luật sư tham gia Liên đoàn luật sư Việt Nam thông qua Đoàn luật sư nơi mình gia nhập
Chúng tôi cũng thống nhất với đề xuất sửa đổi bổ sung Luật luật sư của Bộ Tư pháp tại dự thảo (4) ngày 08/02/2012 với những nội dung sau :
Điều 6 Luật Luật sư: “Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện tự quản theo quy định của Luật này và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam”, 
Điều 60 Luật Luật sư: “Đoàn luật sư hoạt động theo Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam”
Điều 61: Nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn Luật sư."Đoàn luật sư không được ban hành các quy định về phí và các khoản thu trái với quy định của pháp luật và Liên đoàn luật sư Việt Nam; không được ban hành các nghị quyết, quyết định và các quy định khác trái với Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam
Điều 65: Nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn Luật sư Việt Nam
“Đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những quy định, quyết định và nghị quyết của Đoàn luật sư trái với Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những quy định, quyết định và nghị quyết của Đoàn luật sư trái với quy định của Luật này”

(còn tiếp)

Luật sư Phan Thông Anh - Ủy viên Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam
Trưởng Cơ quan Đại diện Liên đoàn Luật sư Việt Nam tại Tp.Hồ Chí Minh

Đọc thêm