Lý tưởng thẩm mỹ đậm đà tính dân tộc của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Theo lề lối truyền  thống, lý tưởng thẩm mỹ  của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện ở quan điểm về thơ và nhạc.

Theo lề lối truyền  thống, lý tưởng thẩm mỹ  của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện ở quan điểm về thơ và nhạc.

 

Hồ nước trong khu đền thờ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Ảnh: Hoàng Phước

Hồ nước trong khu đền thờ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Ảnh: Hoàng Phước

Đối với thơ, ông sáng tác khá nhiều nhất là thơ chữ Hán, trong đó Bạch Vân quốc ngữ thi tập.  Lâu nay, chúng ta chưa đọc hết, hoặc chưa hiểu hết thơ ông, nên cứ tưởng thơ ông thiên về đạo lý khô khan. Có biết đâu khi cởi mở thì thơ ông cũng có chất thép như dao chém đá:  Vạn cổ gian hùng vô địa táng/Nhất sinh trung nghĩa hữu thiên lâm, nghĩa là:  (Muôn thủa gian hùng không đất táng/Một đời trung nghĩa thấu trời cao).

 

Hay chất thơ hào hùng khi tiếp sứ nhà Minh sang ta: Bắc Nam tích dĩ thù phân hạn/Vũ trụ kim đồng nhất thái hòa (Bắc nam vốn đã chia bờ cõi/Vũ trụ nay chung sống thái bình); Hoặc có chất thơ não nề, nhân gặp thu sang, khi phải xa quê hương biền biệt: Kỷ hồi cô chẩm song hàng lệ/ Độc tính hàn châm bản dạ thanh    (Bao đêm gối chiếc lệ rơi/ Nghe ai nện vải khôn nguôi tấc thầm)

 

Bởi có ý thức xây dựng và bảo vệ nền văn hiến dân tộc, nên dù có làm thơ chữ Hán, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn thể hiện ở mức độ cao nội dung và chất liệu thơ dân tộc. Thơ của ông có những câu tả cảnh ngụ tình hấp dẫn có thể so sánh với những  câu thơ hay trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, hay trong Hồng Đức quốc âm thi tập của các nhân sĩ thời Lê Thánh Tông:  Ái  ưu vằng vặc trăng in nước/ Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa” (bài 1)  hoặc: Đêm đợi trăng lòng soi bóng cúc /Ngày chờ gió thổi tìm hoa”(bài 19)

 

Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng sử dụng cả thể thơ thất ngôn pha lục ngôn và cách kết hợp nhuần nhuyễn, như bốn câu thực và luận trong bài 127: Dặng dõi bên tai cầm suối/ Dập dìu trước mặt cánh sen/ Xuân về hoa nở mùi hương nức/ Khách đến chim  mừng dáng mặt quen. Đọc Bạch vân quốc ngữ thi tập, chúng ta bắt gặp ngoài những tri thức chung của nhân loại, rất nhiều tri thức dân gian của dân tộc ta qua thành ngữ, cổ ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam . Đi theo con đường của Nguyễn Trãi và các nhân sĩ thời Lê Thánh Tông về ý thức tôn trọng và học tập văn nghệ dân gian của dân tộc mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng sáng tạo khá nhiều tục ngữ, ca dao Việt Nam để phù với câu thơ thất ngôn hoặc lục ngôn của mình:Ví dụ:  Cờ đến tay ai người ấy phất (bài 75); Hoặc : Rút dây lại né động rừng chăng? (Bài 96.).  Những câu thơ  của Nguyễn Bỉnh Khiêm và âm vang của tục  ngữ, ca dao trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập khiến chúng ta tưởng như cùng ngâm vịnh với ông theo ngược dòng thời gian. Phải chăng đó là sức mạnh kỳ diệu của lý tưởng thẩm mỹ đậm bản  tính dân tộc và bản sắc văn hóa dân gian Việt Nam ?.

 

Bùi Văn Nguyên

Đọc thêm