|
Chân dung nhà văn Lê Văn Trương (trái). Tác giả bên mộ nhà văn Lê Văn Trương. |
Thế nhưng cớ làm sao ông lại là một hiện tượng best-seller trong thời đại của ông, dù ông in nhiều kỷ lục nhưng chẳng để lại tác phẩm nào có giá trị nghệ thuật cao?
Ngày 13 tháng Giêng Canh Dần, theo lời mời của cô Lê Thị Giáng Vân - con gái út của nhà văn Lê Văn Trương, tôi đội nắng cùng với một cậu học trò chuyên Văn lên dự đám giỗ cụ. Chúng tôi ra vườn, thăm ngôi mộ và thắp hương cho cụ giữa một buổi trưa nồng nhưng gần gũi, mát lòng. Mộ nhà văn nằm lặng lẽ trong một góc khu vườn bên cạnh căn nhà cô con gái rượu của cụ ở phường Thạnh Xuân, quận 12, TP. Hồ Chí Minh. Năm nay, vì chuẩn bị sửa lại mộ phần cho cụ, nên giàn hoa giấy đỏ và rặng cây vườn không còn che mát như xưa, bộ ghế đá dành cho khách đến ngồi trò chuyện trong khuôn viên mộ phần cụ cũng không còn,…
Tại căn nhà này, cô Giáng Vân đã lưu giữ rất nhiều kỷ vật, sách in và tư liệu về nhà văn. Và qua cô, tôi đã được nghe rất nhiều về cuộc đời “oai phong” đi Bắc vô Nam, qua Trung Quốc, đến Xiêm, Cam Bốt, làm đủ thứ nghề của cụ. Tôi cũng nghe nhiều thăng trầm, oan khiên mà cụ và người thân của cụ đã gặp phải trên dòng chảy lịch sử. Người con cả là nhà văn Mạc Lân cả đời cũng đã phụng sự cho đất nước, nhưng vì oan khiên lý lịch đành sống đời sống cơ hàn nơi đất Bắc. Bản thân cô Giáng Vân, một kỹ sư canh nông cũng đã bị “khó dễ” khi còn học ở trường phổ thông, đại học,…
Nhân tiện tôi hỏi về chuyện khi cụ mất có người nói những con mèo đã thức canh giữ thi thể cụ có không? Cô con gái nói đấy chỉ là giai thoại thôi. Đầu năm 1954, cụ vào Sài Gòn làm thầu khoán, viết sách, viết báo, tái bản sách. Nhưng lúc này, sách của cụ không còn độc giả nữa, công việc thầu khoán, đi buôn cũng suy sụp; cụ bị vỡ nợ và sống trong nghèo túng đến năm 1964 thì mất tại một con hẻm ở đường Bùi Viện (Quận 1, TP. Hồ Chí Minh). Lúc cụ mất có một ít bạn nhà văn và người vợ lẽ thứ ba. Giai thoại về mèo ấy là do sinh thời, cụ rất mê nuôi mèo nên người đời bịa ra vậy… Năm 1983, thi hài cụ được con cái đưa về an táng tại khu vườn này. Cô Giáng Vân đọc hai câu thơ của một fan của cụ ngày nào:
Trường đời trải mấy xuân mưa nắng,
Lê Văn Trương là một trong những mẫu nghệ sĩ “sống để viết” và “viết để sống”. Gần 60 năm tận hiến, Lê Văn Trương đã để phong cách sống của mình, cuộc đời “hoành tẩu giang hồ” của mình hằn dấu rất rõ trên những trang văn. Triệu Xuân đã viết: “Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nổi bật lên hai văn đoàn. Văn đoàn thứ nhất có trên dưới chục người, do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam sáng lập, mang tên Tự Lực Văn Đoàn. Văn đoàn thứ hai, thực ra chẳng có đoàn nào cả, chỉ có một người, một người một cõi nghênh ngang, nhưng số lượng tác phẩm xuất bản, số lượng độc giả say mê tìm đọc không thua kém gì văn đoàn thứ nhất, ấy là nhà văn Lê Văn Trương”.
Chừng ấy thôi cũng đủ để cụ ghi tên mình vào danh sách những nhà văn Việt nổi tiếng. Song theo tôi, cái đặc biệt của cụ là bằng một cuộc đời “giang hồ” thuộc loại bậc nhất trong văn giới xứ Việt, bằng cách nghĩ của một người trải nghiệm sâu sắc nhất “trường đời”, ông đã khơi dòng cho một chi hệ văn chương đại chúng, đó là văn chương tiêu dùng… Chừng ấy đủ để ông yên tâm nằm giữa Sài Gòn mà vui vẻ bên người thân và bạn đọc!
Nhà văn Lê Văn Trương (1906-1964), bút hiệu Cô Lý, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Ông sinh tại làng Đồng Nhân, nay là khu phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Cha ông gốc người Hà Đông, lên lập nghiệp ở Bắc Giang. Trước Cách mạng Tháng Tám, Lê Văn Trương làm rất nhiều nghề: Công chức Sở Dây thép, khai khẩn đồn điền, thầu khoán, buôn bò, buôn ngọc, buôn lậu... ở nhiều nơi, có khi sang tận Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc. Song, về sau, ông cộng tác với nhiều báo như: Trung Bắc tân văn, Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Truyền bá, Việt Nam hồn… Sau Cách mạng Tháng Tám, ông theo kháng chiến, làm Chủ tịch Ủy ban Đãi vàng Bắc Bộ, vào bộ đội, công tác ở Tiểu ban Văn nghệ, Ban Tuyên huấn thuộc Phòng Chính trị Liên khu III. Sau bị bệnh, ông xin phép về Hà Nội chữa bệnh. Đầu năm 1954, ông vào Sài Gòn làm thầu khoán, viết báo, tái bản sách cho đến cuối đời. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, theo nhiều người, ông đã viết gần 200 tác phẩm. Theo bản thống kê của gia đình ông thì còn lưu giữ được 125 tác phẩm, 96 cuốn đã in và 29 cuốn chưa in. Những tác phẩm tiêu biểu của ông: Đưa cháu đồng bạc, Cô Tư Thung, Một người cha, Một lương tâm trong gió, Trong ao tù trưởng giả, Tôi là mẹ, Cánh sen trong bùn, Trường đời, Hai anh em, Hận nghìn đời, Một linh hồn đàn bà, Một cuộc săn vàng, Sợ sống, Ái tình muôn mặt, Đầu bạc đầu xanh, Những thiên tình hận, Lịch sử một tội ác, Triết học sức mạnh, Hai tâm hồn, Người mẹ tội lỗi, Kiếp hoa rơi… |
(*) Trường đời, Một người là tên hai tác phẩm nổi bật của nhà văn Lê Văn Trương.