Phú Trạm - Inrasara, “là gã nông phu mắc nợ văn chương, chàng thi sĩ mang khối óc học thuật, người nâng niu và sống hết mình với văn hóa dân tộc Chăm”, một bạn viết của chúng tôi đã khái quát về anh như thế. Trong câu chuyện của cuộc tao ngộ này, tôi thích được tiếp cận với những mảnh ký ức rời và những hàm ngôn trong đời sống tinh thần của một gã đàn ông Chăm đam mê sáng tạo…
Những ký ức rời…
|
Inrasara. |
Năm 1978, Inrasara - chàng sinh viên năm thứ nhất khoa Anh - Trường Đại học Sư phạm TP.HCM bỏ học giữa chừng, tưởng là để đi đâu làm gì, hóa ra là tất tả về quê nhà ở làng Chakleng - Ninh Thuận tiếp tục nghề cày ruộng; nhưng nông phu trẻ làm đủ nghề mưu sinh lại mang một nỗi niềm đau đáu với thơ ca và văn hóa Chăm. Anh lựa chọn sự trở về - nhưng theo tôi, đó là sự trở về nhằm xốc lại hành trang cho những chuyến đi xa. Nếu không có sự trở về ấy, thật khó để làm nên một Inrasara đầy đặn của hôm nay. Có đúng vậy không?
Inrasara: Tôi mê dân tộc mình. Và nhiều dân tộc khác nữa, có lẽ. Cuộc đời của những sinh phận vô danh cuốn hút tôi kỳ lạ. Ứng xử với giới học thức, tôi còn vướng mắc vài trở ngại nhất định, riêng với người nông thôn vô danh Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Khmer ở Sóc Trăng, Trà Vinh hay Kinh ở Hậu Giang, Bắc Ninh…tôi đều xử sự vô ngại. Họ đối xử với tôi cũng thế. Khi ta cho đi thế nào thì ta cũng sẽ nhận được thế ấy. Chế Lan Viên: “Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ/ Quay về xem non nước giống dân Chàm…” Khi ta rời bỏ như là rời bỏ, để quay về như là quay về, ta mới thu phối vào tầm mắt và trái tim mình đủ đầy câu chuyện, tâm cảm họ. Tôi gọi đó là “những ngày rỗng”. Về, như là cách nạp năng lượng để ra đi, để lên đường làm cuộc khai phá mới.
“Những con chữ nắm đuôi nhau xếp hàng chịu phận đời phiêu dạt”, anh và người vợ Hani (Thuận Thị Trụ) cùng những đứa con đã có thời gian phiêu bạt, nhưng đó cũng là những ngày thật đẹp khi anh biến sự khốn khó làm một cuộc dạo chơi, một cuộc dạo chơi cho những trải nghiệm và thẩm thấu văn hóa. Nghĩ lại mảng ký ức này, anh hàm ơn hay kinh hoàng nó?
Inrasara: Không chút nào gọi là kinh hoàng hay ân hận cả đâu. Đó là những tháng ngày tuyệt đẹp. Đẹp, vì nó cần thiết cho tôi, vì tôi làm cho nó trở nên cần thiết. “Mọi ngày là mỗi ngày linh thánh với tôi!” Không nhớ ai đã nói câu này, nhưng đó là châm ngôn tôi viết bằng phấn màu trên bức tường đất trước bàn học thuở thanh niên đầy mơ mộng của tôi. “Tạ ơn bước chân hoang, trái tim lầm lạc” - thơ Inrasara đấy!
Chưa đủ cô đơn để sáng tạo. Anh đã viết một tiểu luận mang tên gọi như thế. Nhưng thống kê lại những việc anh đã làm thì hẳn là Inrasara đã quá đủ cô đơn rồi. Trong anh, cô đơn là tự thân hay một sự gượng ép, một lựa chọn bắt buộc mình phải cô đơn “để sáng tạo”?
Inrasara: Cendrars cho rằng có ba điều làm phong phú tâm hồn một con người: Trải nghiệm ở nhiều vùng đất, tiếp xúc với nhiều con người và tiếp cận nhiều ý tưởng. Tôi thêm: Cuối cùng phải cần thiết trở lại với cô đơn. Cô đơn để kiểm nghiệm chúng, cho tất cả lắng lại ở miền thẳm sâu tâm hồn mình. Tôi phân cô đơn làm ba tầng: Cô đơn trước khi viết, người viết đối mặt với con chữ và ý tưởng chính của tác phẩm sắp viết mà không bị chi phối bởi đề tài nào khác; cô đơn trong khi viết, tâm trí nhà văn không phải bị tán loạn bởi nên hay không nên thế này thế kia, tự do hoàn toàn trước trang giấy hay màn hình trắng; cuối cùng, cô đơn sau khi tác phẩm đã ra đời, kẻ sáng tạo loại bỏ mọi chộn rộn với những khen chê; tác phẩm mình sẽ tự bảo vệ nó trước công luận, mà không cần đến sự can thiệp của tác giả. Kẻ sáng tạo lao vào tác phẩm mới. Đó chính là sự cô đơn toàn phần, cô đơn đầu tiên và cuối cùng.
Hành trình “Lưu giữ ký ức dân tộc”
Inrasara đã góp công lớn trong việc “khai quật”, nghiên cứu và làm xuất lộ nhiều tầng nền văn hóa Chăm hay chính văn hóa dân tộc Chăm đã làm nên Inrasara?
Inrasara: Văn hóa Champa là văn hóa đùa vui/ Chịu chơi cả trong đau khổ” (thơ Inrasara). Mười bảy thế kỷ tồn tại, sáng tạo và đùa vui, người Champa đã để lại cho đời bao nhiêu thành tích giàu sang và chói sáng, đến nỗi hơn hai trăm năm bị lãng quên và hủy hoại vẫn chưa thể chôn vùi hết chúng. Nửa đời người yêu thương, nhập cuộc đùa vui với nền văn hóa ấy, tôi vỡ được vài lớp vữa từ trầm tích phong nhiêu kia. Nhưng mấy thành tựu cỏn con đó không thấm vào đâu cả, so với những gì tổ tiên Chăm để lại. Nói đúng hơn, chính văn hóa Chăm đã làm nên Inrasara. Bạn có thể hỏi ngược lại, tại sao văn hóa kia đã không làm nên người nào đó, mà là Sara? - Bí ẩn ở chính sự tiếp nhận tinh thần nhập cuộc chịu chơi ra sao của sinh thể Chăm nào đó…
Trong cuộc hành trình ấy, có lúc nào anh cảm thấy cô độc và mệt mỏi? Anh có thấy hoang mang khi mà bể cả mênh mông văn hóa Chăm chỉ có rất ít người khám phá, trong khi đó, rất cần một cuộc chạy tiếp sức đến tương lai?...
Inrasara: Xin trích đoạn “Bế tắc sáng tạo” trong Song thoại với cái mới (2008): “Tôi biết rằng mình rất nghiêm túc trong nghiên cứu văn chương Chăm, kiên nhẫn trình bày nền văn chương đang nguy cơ trầm một này cho thế giới bên ngoài biết; rất nghiêm trang canh giữ ngôn ngữ dân tộc đang ngưỡng lai tạp bằng sáng tác thơ ca, nhưng tôi cũng biết rằng cái nghiêm túc, nghiêm trang với nỗi kiên nhẫn kia vẫn là trò chơi. Khi nhận thức sâu thẳm như thế, chúng ta nhập cuộc vào trò chơi. Không tính toán. Ngôn ngữ mang chở nền văn chương ngàn năm kia, nhúm tập thơ mỏng tang cùng dăm ba công trình nghiên cứu dày cộp này, ngày nào đó rồi cũng tiêu vong. Không vấn đề gì cả! Không vì thế mà ta chán nản bỏ cuộc hay bày trò bế tắc”. Tôi cho đó là lối chủng ngừa hiệu quả giữa cuộc vật lộn vô tận này. Còn các cuộc chạy tiếp sức ở thì tương lai ư? Hãy xem bút lực của các cây bút trẻ trong đặc san Tagalau, thì biết ngay thôi.
Trong tiểu thuyết Chân dung Cát, anh đã cho nhân vật của mình phát biểu “viết như một công dân của thế giới”, có lẽ đây cũng là phương châm của tác giả. Và nếu như vậy, anh đã làm được mấy phần theo phương châm ấy?
Inrasara: Hãy hiểu nó theo tinh thần của châm ngôn hậu hiện đại: Suy tư toàn cầu, hành động địa phương. Ta hiểu hệ sinh thái của trái đất bị tàn phá đang tác động lên toàn thể cuộc sống con người trên trái đất. Song ta đừng lo lắng cho thế giới mà hãy cặm cụi trồng cây trong khu vườn nhà ta, can ngăn bà con ta chớ phá rừng, là ta đã làm việc cho thế giới rồi. Với nhà thơ, cứ canh thức ngôn ngữ dân tộc, viết sâu thẳm về con người sống quanh bạn, là bạn đã “viết như một công dân thế giới”. Bởi thế giới là bạn và tôi, chứ không là cái gì trừu tượng khác.
Thi sỹ là người lưu giữ ký ức dân tộc. Inrasara đã nói như thế. Làm một phép tự đánh giá, anh đã làm gì và còn làm gì để lưu giữ ký ức dân tộc Chăm của mình?
Inrasara: Tôi đã làm Nhà Trưng bày Văn hóa Chăm Inrahani ở Chakleng, trưng bày các sản phẩm văn hóa vật thể như: nông ngư cụ, đồ dùng hàng ngày, nhạc cụ, các bản sao tượng cổ Chăm…Tôi cũng đã làm xong bộ Văn học Chăm, Khái luận - văn tuyển, góp phần soạn ba cuốn Từ điển song ngữ Chăm - Việt, biên soạn Tự học tiếng Chăm… để bảo lưu một phần văn hóa hóa phi vật thể dân tộc. Nhưng nhà thơ “lưu giữ ký ức dân tộc” không như nhà khảo cổ hay nhà sử học, mà như một nhà thơ. Nghĩa là phần tinh túy nhất của tinh thần dân tộc ấy, văn hóa của dân tộc ấy. Là câu chuyện kể xuyên thế hệ, tồn tại và lưu truyền đời này sang đời khác qua ngôn ngữ dân tộc.
Bình tĩnh đón nhận những đồng tình và phản bác
Trong cuốn “Văn hóa xã hội Chăm - nghiên cứu và đối thoại” của anh do NXB Văn học ấn hành năm 2008, tôi rất thích chương “Điểm danh các khuyết tật Chăm”. Có ai trong cộng đồng Chăm phản biện hay phản ứng về những điều anh nói?
Inrasara: Làm nhà văn có nghĩa là bị đẩy xuống tàu, Camus nói thế. Không phải nhập cuộc (engagé) mà là bị đẩy xuống tàu (embarqué). Khi bị đẩy xuống, tôi đã phải chiến đấu để chèo chống con tàu qua cơn sóng gió. Vào cuộc, tôi không thể từ chối lên tiếng về nhiều vấn đề nóng, cộm của xã hội. Lao mình vào nhiều lĩnh vực: sáng tác, nghiên cứu, phê bình, hoạt động xã hội…Một nhà văn như thế không nhận phản hồi hay phản ứng từ cộng đồng mới lạ. Tốt và xấu, tích cực hay tiêu cực, đồng tình với phản bác, đủ cả. Tôi bình tĩnh đón nhận chúng. Có vị còn tố cáo tôi “kết án mười thói tật” của dân tộc mình nữa là. Ồ, nếu suy luận kiểu đó thì có riêng Chăm đâu, tôi còn “kết án” giới phê bình (“Gọi tên các căn bệnh phê bình hôm nay”), thành phần trí thức (“Khuyết tật của hội thảo”) và cả giới sáng tác (“Giải Nobel cho văn chương Việt, tại sao chưa?”) người Kinh nữa!
Trong tiến trình cách tân và ủng hộ cách tân thi ca không mệt mỏi, có lúc nào anh e ngại sự đụng chạm đâu đó?
Inrasara: Cách tân, không phải cách tân hời hợt nửa vời như thay đổi trật tự câu chữ hoặc uốn éo ngôn từ…mà là thay đổi lớn, thay đổi mang tính hệ mỹ học. Nó không bị dị ứng hay va chạm với lực lượng bảo thủ, mới lạ. Sự thể đã xảy ra nhiều lần và liên tục, biểu hiện bằng nhiều thái độ với mức độ khác nhau. Tôi cũng đã có phản ứng rải rác đây đó, xin miễn nhắc lại. Nhưng lẽ nào ngại va chạm mà từ chối làm hay ủng hộ, cổ súy cái mới? Như vậy, thơ Việt sẽ đi về đâu?...
Cảm ơn sự cộng tác của nhà thơ Inrasara!