Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều chia buồn khi hay tin Sơn Tùng qua đời. "Ông là một con người đặc biệt, một nhà văn đặc biệt. Ý chí sống và sức sáng tạo phi thường của ông là một tấm gương lớn", nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nói.
Trước khi mất, nhà văn bị tai biến 11 năm. Ông liệt nửa người, mất hoàn toàn khả năng tự sinh hoạt nhưng trí óc vẫn minh mẫn, được vợ con chăm sóc. Gia đình ông sống trong căn nhà tập thể ở ngõ Văn Chương. Ông có hai người con trai, không ai theo nghiệp bố.
|
Trích đoạn phần mở đầu tiểu thuyết "Búp sen xanh" trong chương trình "Đọc truyện đêm khuya". Video: VOV.
Trước khi phải nằm một chỗ, ông đang thực hiện dở cuốn sách về Chủ tịch Hồ Chí Minh và ấp ủ viết một cuốn nữa về quê hương Nghệ An. Bản thảo có tên Những chuyện Bác Hồ - Cả trăm năm chưa dễ thấu ngọn nguồn, được viết dựa trên nhiều nguồn tư liệu. Trong đó, có tư liệu ghi lại từ cuộc gặp gỡ, trò chuyện của nhà văn Sơn Tùng với bà Nguyễn Thị Thanh và ông Nguyễn Sinh Khiêm (chị và anh ruột của Hồ Chủ tịch).
Anh Bùi Sơn Định - con trai thứ của nhà văn - là người thay cha tập hợp bản thảo từ những tư liệu ông lưu giữ. Dù chỉ nằm yên một chỗ, nói vài từ đơn giản, trí nhớ nhà văn vẫn minh mẫn. Con trai thường đọc bản thảo trực tiếp cho ông nghe hoặc ghi âm lại để ông nghiền ngẫm. Dù không thể giải thích tường tận, ông có thể gật, lắc với những điều đúng sai mà con trai nói.
|
Nhà văn Sơn Tùng. Ảnh: Nguyễn Đình Toán.
Nhà văn Sơn Tùng sinh năm 1928 ở Nghệ An. Trước khi trở thành nhà văn, ông tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tháng 4/1971, ông bị thương nặng trở về với 14 mảnh đạn trên mình: liệt tay phải, vỡ vai trái, mắt phải còn 1/10, ba mảnh đạn găm trong sọ não không thể mổ gắp ra được. Mất 81% sức khỏe, xếp hạng thương tật 1/4 (hạng thương binh nặng nhất), song ông vẫn cầm bút viết. Từ 1974 đến năm 2010, với bàn tay chỉ còn ba ngón cầm bút được, ông đã viết hàng chục tiểu thuyết, tập truyện ngắn, văn xuôi.
Trong dịp nhà văn nhận danh hiệu "Anh hùng Lao động" năm 2011, nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn - nhà thơ Hữu Thỉnh - từng phát biểu về ông: "Tên tuổi Bùi Sơn Tùng từng có lúc là biểu tượng của thế hệ thanh niên, được Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cử đi dự Festival thanh niên sinh viên thế giới thời chống Pháp. Đến kháng chiến chống Mỹ, Sơn Tùng lại từ giã hậu phương để vào chiến truờng viết báo và chiến đấu. Bị thương nặng, ông được đưa ra Bắc điều trị và trở thành thương binh - bệnh nhân ngoại trú cả đời. Từ đây, là cả một chặng dài với nghị lực phi thường, Sơn Tùng phấn đấu và rèn luyện để phục hồi trí nhớ, phục hồi sức sáng tạo".
|
Bìa sách "Búp sen xanh", bản ra mắt năm 2020. Ảnh: Kim Đồng.
Nhà văn Sơn Tùng được biết đến với nhiều tác phẩm viết về Hồ Chí Minh, trong đó nổi tiếng nhất là Búp sen xanh. Tiểu thuyết viết về tuổi thơ, thời niên thiếu và tuổi đôi mươi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến nay được tái bản hơn 30 lần, dịch ra nhiều thứ tiếng. Tác phẩm mở ra hướng mới khi viết về cố chủ tịch, khi ông "đời thường hóa" vị lãnh tụ, miêu tả mối tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh (khi ấy là Nguyễn Tất Thành) với thiếu nữ Lê Thị Huệ. Năm 1990, khi các nhà làm phim đề nghị ông viết một kịch bản phim kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn đã chuyển thể Búp sen xanh thành Cuộc chia ly trên bến Nhà Rồng, kịch bản in thành sách năm 2015.
Ngoài ra, ông còn viết về một số nhân vật cách mạng khác như Trần Phú, Nguyễn Hữu Tiến. Anh Sơn Định - con trai ông - cho biết ngày nhà văn còn khỏe, ông vẫn thường nói tới một nguyên tắc khi viết về các vĩ nhân: "Viết về Hồ Chủ tịch và các vĩ nhân, ta có thể thả hồn vào trong đó chứ không được bịa. Bịa là có tội với Hồ Chủ tịch và các vĩ nhân...".
Khi tiếp xúc với các nguồn tin, nhà văn Sơn Tùng có tiêu chí riêng để xác minh: "Một câu chuyện cần phải có ít nhất ba người ở ba nơi khác nhau nói, tuy cách trình bày có thể khác nhau nhưng cùng chung một sự kiện thì mới đủ tin cậy". Khi còn sống, ông từng lặn lội vào Nam ra Bắc để gặp các nhân vật liên quan. Ngoài đề tài danh nhân, Sơn Tùng còn có một số sáng tác khác như Lõm (viết năm 1976, in lần đầu năm 1994), Trái tim quả đất (viết năm 1988, in lần đầu năm 1990), nói về chiến tranh và xã hội, con người Việt Nam trong và sau khi kết thúc chiến tranh. Ông từng viết khoảng 100 bài thơ, trong đó có bài Gửi em chiếc nón bài thơ, được nhạc sĩ Lê Việt Hòa phổ nhạc.