Báo Hải Phòng trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài viết của PGS, TS Nguyễn Viết Thông, Tổng thư ký Hội đồng lý luận Trung ương về những điểm mới bổ sung quan trọng trong dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011):
Tại Hội nghị Trung ương 9 khoá 6 – Hội nghị thảo luận dự thảo Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Lúc này chúng ta chưa có đủ cơ sở để vẽ toàn bộ bức tranh của xã hội tương lai một cách hoàn chỉnh. Nhưng căn cứ vào những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, căn cứ vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội 6 và thực tiễn đổi mới xã hội ta trong hơn 3 năm qua, chúng ta có thể vạch ra những nguyên tắc và phương hướng lớn cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là điều có thể làm được. Sau này, khi thực tiễn bộc lộ những vấn đề mới, qua tổng kết, Cương lĩnh sẽ không ngừng được bổ sung và hoàn chỉnh từng bước”.
Kể từ khi Cương lĩnh năm 1991 ra đời đến nay, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều biến đổi to lớn. Nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra được nhận thức và giải quyết qua các nhiệm kỳ đại hội, qua các cuộc tổng kết lý luận – thực tiễn, nhất là tổng kết lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới. Đại hội 10 của Đảng đã khẳng định: “Qua tổng kết lý luận – thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy giá trị tư tưởng và vai trò chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991), đồng thời càng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội 10, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên CNXH”.
Hội nghị Trung ương 12 khoá 10 đã thông qua toàn văn dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), công bố lấy ý kiến đóng góp của đại hội đảng bộ các cấp, của Quốc hội và ý kiến rộng rãi của nhân dân trước khi trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 của Đảng. Bài viết này giới thiệu những điểm bổ sung, phát triển mới quan trọng trong dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung và phát triển năm 2011).
1. Về tên gọi Cương lĩnh
Hội nghị Trung ương 12 khoá 10 đã nhất trí với tên gọi: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh này là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Do đó, không nên và không cần phải thay đổi, chỉ bổ sung thêm phần ghi trong ngoặc (bổ sung, phát triển năm 2011). Tương tự như cách gọi: “Cương lĩnh năm 1930”, “Cương lĩnh năm 1991”, “Hiến pháp năm 1946”, “Hiến pháp năm 1980”, “Hiến pháp năm 1992” “Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001)”.
2. Về đánh giá khái quát quá trình cách mạng Việt Nam
Cương lĩnh năm 1991 đánh giá khái quát quá trình cách mạng trong hơn 60 năm. Đến nay quá trình cách mạng nước ta đã hơn 80 năm. Kế thừa đánh giá của Cương lĩnh năm 1991, của các văn kiện đại hội thời kỳ đổi mới, nhất là của Đại hội 9, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2001) viết: “Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới; tiến hành CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, đưa nước ta tiếp tục từng bước quá độ lên CNXH với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam”.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) khẳng định : “Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường CNXH; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đang đẩy mạnh CNH, HĐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới”.
Đánh giá tổng quát như trên đã thể hiện một cách cô đọng, khái quát hơn so với Cương lĩnh năm 1991, bảo đảm trung thực với lịch sử, đề cao niềm tự hào dân tộc, đồng thời phù hợp với yêu cầu đối ngoại.
3. Về bối cảnh quốc tế
Bối cảnh quốc tế hiện nay và trong vài thập kỷ tới khác rất nhiều so với thời điểm Đảng ta ban hành Cương lĩnh năm 1991. Các đại hội Đảng gần đây, nhất là Đại hội 10 đã dự báo bối cảnh quốc tế. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) kế thừa những nội dung còn giá trị trong Cương lĩnh năm 1991, những dự báo trong các văn kiện Đảng đã viết gọn hơn theo hướng không đi sâu vào những vấn đề thế giới không liên quan trực tiếp đến nước ta, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, như về nguyên nhân sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô (trước đây) và Đông Âu, cân nhắc đánh giá, nhận định đúng mức hơn về chủ nghĩa tư bản.
Điểm mới nhất trong dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) về bối cảnh quốc tế, là nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại. Cương lĩnh năm 1991 viết : “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. CNXH hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới XHCN vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử” . Căn cứ vào thực tiễn tình hình thế giới từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đến nay, vào quá trình toàn cầu hóa, dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) viết : “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH ”.
4. Về mô hình, mục tiêu, phương hướng
Một là, về mô hình XHCN mà nhân dân ta xây dựng
Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” .
Đến Đại hội 10, Đảng ta bổ sung thêm 2 nội dung (thường gọi là “đặc trưng”) mới:
(1) Đưa mục tiêu được xác định ở Đại hội 8I và được bổ sung ở Đại hội 9 “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thành đặc trưng tổng quát; (2) có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đại hội 10 còn bổ sung, phát triển ở một số đặc trưng.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) xác định: “ Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội”: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
So với Cương lĩnh năm 1991, dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) có một số điểm mới sau:
(1) Bổ sung thêm hai “đặc trưng”: Đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và ; “có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Hai “đặc trưng” này Đại hội 10 đã bổ sung nhưng điểm mới so với Đại hội 10 là chuyển từ “dân chủ” lên trước từ “công bằng”, bởi cả về lý luận và thực tiễn đều khẳng định có dân chủ thì mới có công bằng, văn minh, đồng thời để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
(2) Tiếp tục bổ sung, phát triển nội dung một số đặc trưng:
“Đặc trưng” về con người: Cương lĩnh năm 1991 xác định: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Đại hội 10 bỏ từ “bóc lột” và thay cụm từ “có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” bằng cụm từ “phát triển toàn diện”. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) bỏ tiếp cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” và thêm cụm từ “có điều kiện” vào trước cụm từ “phát triển toàn diện” thành: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Xác định như thế là chính xác, vì đây là nói mục tiêu đã xây dựng xong CNXH .
Bổ sung, phát triển “đặc trưng” về dân tộc. Cương lĩnh năm 1991 xác định: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Đại hội 10 thêm từ “tương trợ” sau từ “đoàn kết”. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) thay từ “tương trợ” bằng từ “tôn trọng” và thay từ “tiến bộ” bằng từ “phát triển”. Vì vấn đề đặt ra là các dân tộc tôn trọng nhau và không chỉ giúp nhau cùng tiến bộ mà giúp nhau cùng phát triển. Dự thảo viết như sau: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
(3) Kế thừa sự bổ sung, phát triển của Đại hội 10 đặc trưng về “Do nhân dân làm chủ”.
Hai là, về mục tiêu tổng quát, mục tiêu của chặng đường tới
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta diễn ra trong thời gian rất dài, chưa thể xác định cụ thể mốc thời gian kết thúc, vì thế trong Cương lĩnh chỉ nêu mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ và mục tiêu đến khoảng giữa thế kỷ 21.
Về mục tiêu tổng quát, dự thảo viết: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng xong về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở làm cho nước ta trở thành một nước CNXH ngày càng phồn vinh”. So với Cương lĩnh năm 1991, có điều chỉnh một vài từ (bỏ cụm từ “phải đạt tới”, thêm cụm từ “ở nước ta”, dùng cụm từ “nền tảng kinh tế” thay cho “những cơ sở kinh tế”; thêm từ “ngày càng” vào trước từ “phồn vinh” thành “ngày càng phồn vinh”. Viết như vậy vừa thể hiện rõ quá trình phát triển, vừa có ý nghĩa động viên phấn đấu vì một xã hội tương lai tốt đẹp.
Về mục tiêu của chặng đường sắp tới, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) chỉ nêu mục tiêu đến khoảng giữa thế kỷ 21, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN (mục tiêu đến 2020 các Đại hội 8, 9, 10 đã xác định và ghi trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020).
Đến Đại hội 10, Đảng ta bổ sung thêm 2 nội dung (thường gọi là “đặc trưng”) mới:
(1) Đưa mục tiêu được xác định ở Đại hội 8 và được bổ sung ở Đại hội 9 “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thành đặc trưng tổng quát; (2) có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đại hội 10 còn bổ sung, phát triển ở một số đặc trưng.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) xác định: “ Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội”: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
So với Cương lĩnh năm 1991, dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) có một số điểm mới sau:
(1) Bổ sung thêm hai “đặc trưng”: Đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và ; “có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Hai “đặc trưng” này Đại hội 10 đã bổ sung nhưng điểm mới so với Đại hội 10 là chuyển từ “dân chủ” lên trước từ “công bằng”, bởi cả về lý luận và thực tiễn đều khẳng định có dân chủ thì mới có công bằng, văn minh, đồng thời để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
(2) Tiếp tục bổ sung, phát triển nội dung một số đặc trưng:
“Đặc trưng” về con người: Cương lĩnh năm 1991 xác định: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Đại hội 10 bỏ từ “bóc lột” và thay cụm từ “có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” bằng cụm từ “phát triển toàn diện”. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) bỏ tiếp cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” và thêm cụm từ “có điều kiện” vào trước cụm từ “phát triển toàn diện” thành: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Xác định như thế là chính xác, vì đây là nói mục tiêu đã xây dựng xong CNXH.
Bổ sung, phát triển “đặc trưng” về dân tộc. Cương lĩnh năm 1991 xác định: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Đại hội 10 thêm từ “tương trợ” sau từ “đoàn kết”. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) thay từ “tương trợ” bằng từ “tôn trọng” và thay từ “tiến bộ” bằng từ “phát triển”. Vì vấn đề đặt ra là các dân tộc tôn trọng nhau và không chỉ giúp nhau cùng tiến bộ mà giúp nhau cùng phát triển. Dự thảo viết như sau: Các dân tộc trong cộng đồng Việt
(3) Kế thừa sự bổ sung, phát triển của Đại hội 10 đặc trưng về “Do nhân dân làm chủ”.
Hai là, về mục tiêu tổng quát, mục tiêu của chặng đường tới
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta diễn ra trong thời gian rất dài, chưa thể xác định cụ thể mốc thời gian kết thúc, vì thế trong Cương lĩnh chỉ nêu mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ và mục tiêu đến khoảng giữa thế kỷ 21.
Về mục tiêu tổng quát, dự thảo viết: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng xong về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở làm cho nước ta trở thành một nước CNXH ngày càng phồn vinh”. So với Cương lĩnh năm 1991, có điều chỉnh một vài từ (bỏ cụm từ “phải đạt tới”, thêm cụm từ “ở nước ta”, dùng cụm từ “nền tảng kinh tế” thay cho “những cơ sở kinh tế”; thêm từ “ngày càng” vào trước từ “phồn vinh” thành “ngày càng phồn vinh”. Viết như vậy vừa thể hiện rõ quá trình phát triển, vừa có ý nghĩa động viên phấn đấu vì một xã hội tương lai tốt đẹp.
Về mục tiêu của chặng đường sắp tới, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) chỉ nêu mục tiêu đến khoảng giữa thế kỷ 21, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN (mục tiêu đến 2020 các Đại hội 8, 9, 10 đã xác định và ghi trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020).
Ba là, về các phương hướng cơ bản
Cương lĩnh năm 1991 xác định, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững 7 phương hướng cơ bản. Nội dung của 7 phương hướng có rất nhiều nội dung trùng lắp với những nội dung được đề cập ở mục 3. Những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Để khắc phục sự trùng lắp, Đại hội 10 đã viết rất khái quát. Kế thừa cách diễn đạt của Đại hội 10, dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) viết: “Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Để thực hiện đúng các phương hướng cơ bản trên, dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) còn bổ sung một đoạn nói về việc nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn. Dự thảo viết: “Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn như: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;… không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
5. Về định hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Cương lĩnh năm 1991 xác định: Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn. Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do pháp luật quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức…
Kế thừa các định hướng trên, và sự bổ sung, phát triển qua các nhiệm kỳ Đại hội 8, 9, 10, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) viết: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển…
Về vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế , trong quá trình xây dựng dự thảo có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, không nên xác định thành phần kinh tế nào là chủ đạo, là nền tảng. Có ý kiến đề nghị chỉ cần nêu “kinh tế nhà nước là chủ đạo”. Tại Hội nghị Trung ương 12, trong Bản giải trình, Bộ Chính trị đề nghị: việc xác định vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là vấn đề rất hệ trọng, liên quan đến đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, đã được thảo luận nhiều và được đa số tán thành. Cương lĩnh này là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; những định hướng lớn về thành phần kinh tế và vai trò của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể là lâu dài đến khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy cần khẳng định được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò nền tảng của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.