QTV - Ngày 22/5/2011, cử tri cả nước sẽ đi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa XIII và Hội đồng ND các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016. QTV xin giới thiệu tư liệu về Quốc hội Việt nam qua các kỳ bầu cử.
Quốc hội khóa I (1946 - 1960) ra đời sau cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử nước ta, diễn ra ngày 6-1-1946, gồm 403 đại biểu. Với 12 kỳ họp, Quốc hội khóa I đã có những đóng góp to lớn vào việc xây dựng Nhà nước dân chủ cộng hòa từ những năm tháng đầu tiên sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công.
Trong nhiệm kỳ 14 năm hoạt động, Quốc hội khóa I đã xem xét và thông qua bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, 11 đạo luật và 50 nghị quyết, phê chuẩn Hiệp định Giơ-ne-vơ. Luật Cải cách ruộng đất được thông qua tại kỳ họp thứ 3 (năm 1953) là văn bản có ý nghĩa quan trọng nhằm xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chính sách "người cày có ruộng" và chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân.
Quốc hội khóa I đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp, thông qua các kế hoạch khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.
Quốc hội khóa II (1960 - 1964) được bầu ngày 8-5-1960, gồm 453 đại biểu. Tại Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa II (từ ngày 6 đến 15-7-1960), Quốc hội bầu ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 21 ủy viên chính thức, 5 ủy viên dự khuyết. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc động viên sức người, sức của để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Quốc hội khóa III (1964 - 1971) được bầu ngày 26-4-1964, gồm 453 đại biểu. Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 23 Ủy viên chính thức, 3 Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do hoàn cảnh chiến tranh, nhiệm kỳ Quốc hội khóa III kéo dài 7 năm và có 7 kỳ họp; ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp 95 lần, thông qua nhiều nghị quyết về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại và tổ chức hành chính, nhân sự.
Quốc hội khóa IV (1971 - 1975) có 420 đại biểu, được bầu ngày 11-4-1971, với nhiệm kỳ 4 năm và đã có 5 kỳ họp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh là Chủ tịch. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Quốc hội khóa V (1975 - 1976) có 424 đại biểu, được bầu ngày 6-4-1975, hoạt động trong gần 2 năm (1975-1976) và chỉ có 2 kỳ họp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch. Một trong những sự kiện quan trọng nhất của Quốc hội khóa này là thông qua Nghị quyết phê chuẩn kết quả của Hội nghị Hiệp thương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước mở ra thời kỳ phát triển mới của nước Việt Nam thống nhất.
Quốc hội khóa I (1946 - 1960) ra đời sau cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử nước ta, diễn ra ngày 6-1-1946, gồm 403 đại biểu. Với 12 kỳ họp, Quốc hội khóa I đã có những đóng góp to lớn vào việc xây dựng Nhà nước dân chủ cộng hòa từ những năm tháng đầu tiên sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công.
Nhân dân Hà Nội bỏ phiếu bầu QH khóa 1 |
Trong nhiệm kỳ 14 năm hoạt động, Quốc hội khóa I đã xem xét và thông qua bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, 11 đạo luật và 50 nghị quyết, phê chuẩn Hiệp định Giơ-ne-vơ. Luật Cải cách ruộng đất được thông qua tại kỳ họp thứ 3 (năm 1953) là văn bản có ý nghĩa quan trọng nhằm xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chính sách "người cày có ruộng" và chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân.
Quốc hội khóa I đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp, thông qua các kế hoạch khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.
Quốc hội khóa II (1960 - 1964) được bầu ngày 8-5-1960, gồm 453 đại biểu. Tại Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa II (từ ngày 6 đến 15-7-1960), Quốc hội bầu ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 21 ủy viên chính thức, 5 ủy viên dự khuyết. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc động viên sức người, sức của để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Quốc hội khóa III (1964 - 1971) được bầu ngày 26-4-1964, gồm 453 đại biểu. Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 23 Ủy viên chính thức, 3 Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do hoàn cảnh chiến tranh, nhiệm kỳ Quốc hội khóa III kéo dài 7 năm và có 7 kỳ họp; ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp 95 lần, thông qua nhiều nghị quyết về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại và tổ chức hành chính, nhân sự.
Quốc hội khóa IV (1971 - 1975) có 420 đại biểu, được bầu ngày 11-4-1971, với nhiệm kỳ 4 năm và đã có 5 kỳ họp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh là Chủ tịch. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Quốc hội khóa V (1975 - 1976) có 424 đại biểu, được bầu ngày 6-4-1975, hoạt động trong gần 2 năm (1975-1976) và chỉ có 2 kỳ họp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch. Một trong những sự kiện quan trọng nhất của Quốc hội khóa này là thông qua Nghị quyết phê chuẩn kết quả của Hội nghị Hiệp thương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước mở ra thời kỳ phát triển mới của nước Việt Nam thống nhất.
Quốc hội khóa VI (1976-1981) - Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất được bầu ngày 25-4-1976, với 492 đại biểu. Trong nhiệm kỳ này, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch. Trong nhiệm kỳ 5 năm (1976 - 1981), với 7 kỳ họp, Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng như: đổi tên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh và thông qua Hiến pháp năm 1980, tại Kỳ họp thứ 7, ngày 18-12-1980...
Quốc hội khóa VII (1981 - 1987) được bầu ngày 26-4-1981, gồm có 496 đại biểu. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước gồm 12 thành viên đảm nhận chức năng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội. Quốc hội khóa VII họp 12 kỳ. Đáng chú ý ở khóa này là lần đầu tiên Quốc hội đã ban hành Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, Quốc hội còn tăng cường triển khai thực hiện chức năng giám sát và chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Quốc hội khóa VIII (1987-1992) được bầu ngày 19-4-1987, có 496 đại biểu. Trong nhiệm kỳ này, đồng chí Lê Quang Đạo được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Võ Chí Công được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước gồm 15 thành viên. Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1992 tại Kỳ họp thứ 11 ngày 15-4-1992.
Đây là Quốc hội của giai đoạn khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội VI của Đảng đề ra. Quốc hội khóa này đã có 11 kỳ họp, ban hành 2 bộ luật, 25 đạo luật và Hội đồng Nhà nước đã ban hành 39 pháp lệnh, trong đó có nhiều đạo luật quan trọng thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta, tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1980 một cách cơ bản và toàn diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Quốc hội khóa IX (1992-1997) được bầu ngày 19-7-1992, gồm có 395 đại biểu, nhiệm kỳ hoạt động là 5 năm. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Quốc hội khóa IX đã đóng vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đường lối đổi mới của Đảng theo tinh thần của Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.
Tại các kỳ họp, Quốc hội đã tập trung thời gian, trí tuệ để đẩy mạnh hoạt động lập pháp với kết quả là 36 luật, bộ luật và 43 pháp lệnh đã được ban hành, tạo cơ sở pháp lý hình thành môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển các thành phần kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường hoạt động đối ngoại.
Quốc hội khóa X (1997 - 2002) gồm 450 đại biểu, được bầu ngày 20-7-1997. ủy ban Thường vụ Quốc hội có 14 thành viên, Chủ tịch Quốc hội là đ/c Nông Đức Mạnh. Tại Kỳ họp thứ 9, đồng chí Nguyễn Văn An được bầu làm Chủ tịch Quốc hội.
Bầu cử là thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của người dân đối với lợi ích chung của đất nước |
Quốc hội khóa XI (2002 - 2007) được bầu ngày 19-5-2002, có 498 đại biểu trúng cử với số cử tri đi bầu đạt tỷ lệ 99,73%, cao nhất so với các khóa bầu cử trước đó. Tại Kỳ họp thứ nhất (từ ngày 19-7 đến ngày 12-8-2002), đồng chí Nguyễn Văn An được bầu lại làm Chủ tịch Quốc hội. Tại Kỳ họp thứ 9, đồng Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Tính đến hết kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI đã thông qua 44 văn bản luật và 26 pháp lệnh.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội khóa XI không chỉ nhiều về số lượng mà còn bảo đảm về chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Các vấn đề quan trọng của đất nước như: phân bổ ngân sách trung ương, xây dựng Nhà máy Thủy điện Sơn La, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, xây dựng Đường Hồ Chí Minh, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất... đã được Quốc hội xem xét, quyết định có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tháng 6-2003, Quốc hội đã ban hành Luật Hoạt động giám sát nhằm cụ thể hóa chức năng giám sát tối cao của Quốc hội. Công tác đối ngoại của Quốc hội khóa này tiếp tục được tăng cường với sự thành công của một loạt các hoạt động ngoại giao, tổ chức hội nghị quốc tế...
Ngày 20 tháng 5 năm 2007, cử tri cả nước ta đã tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII. Đây thực sự là ngày hội lớn và là sự kiện chính trị quan trọng trong đời sống xã hội của Việt Nam trong năm 2007.Thông qua việc bầu cử đại biểu Quốc hội, cử tri cả nước thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách lựa chọn những đại biểu đủ tiêu chuẩn, đủ đức, đủ tài, để đại diện cho nhân dân tham gia Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Việt Nam.Cuộc bầu cử đã thành công tốt đẹp, nhân dân cả nước đã sáng suốt lựa chọn bầu được493 vị đại diện cho các tầng lớp nhân dân, các dân tộctrong cả nước tham gia Quốc hội khoá XII - Quốc hội của thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Lê Lan (tổng hợp)
Ảnh: internet