Người ta chứng kiến, trong cuộc sống, Bùi Giáng thỉnh thoảng có những hành vi, sinh hoạt khác thường, chẳng hạn mặc một lần nhiều bộ quần áo lên người; ra đường hò hét, huơ gậy giữa đám đông; thản nhiên đứng tắm nơi vòi nước công cộng…, rồi kết luận là ông điên (cũng do một phần, ông thường tự nói là mình điên trong nhiều bài viết, bài thơ). Thật ra, có lẽ đó chỉ là biểu hiện của một tâm hồn linh nhạy thái quá, do tố chất (khuynh hướng) siêu hình sung mãn ẩn chứa bên trong “đẩy đưa” mà thành ra bên ngoài như vậy.
“Lỡ từ lạc bước bước ra”
|
Bùi Giáng |
Trong con người Bùi Giáng có một tố chất mẫn nhạy với cõi siêu hình. Cũng một sự kiện, thậm chí một câu thơ vu vơ (nhưng tất nhiên phải hay), ông dễ liên tưởng đến những ý nghĩa, tư tưởng diệu vợi phía sau nó. Chẳng hạn với câu thơ “Của vu vơ nghe mãi tiếng kêu thầm” của Xuân Diệu, ông “phát hiện” đó chính là nói về tâm hồn của những thi sĩ phiêu bồng, luôn “bị” những cái vu vơ “kêu thầm” để mà lãng đãng, để mà suốt đời lên đường tìm kiếm một cái gì đó, và rốt cuộc để mà hệ lụy.
Một đối tượng của siêu hình ám ảnh ông nặng nhất chính là việc con người sinh ra. Vì sao sinh ra? Sinh ra rồi tại sao lại chết? Thuở đầu đời cầm bút, ông đã có 2 câu thơ hay nói về điều này: Lỡ từ lạc bước bước ra/ Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn. Ông cho rằng sinh ra đời đã là “lỡ từ lạc bước bước ra” và phải đi tiếp mãi trên đường đời không thể chống chọi lại. Và “chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn” cũng là cách ông nói về sự gắn kết tâm thức mình với những rừng hoa trên núi ngàn quê ông, cái đẹp của chúng mà ông lần đầu được ngắm đã thành cái mênh mông xa vắng mãi trong tâm hồn ông. Lại có lần ông viết về mình: “Thi sĩ sinh ra giữa cỏ cây ly kỳ gây cấn và sẽ chết đi giữa cây cỏ gây cấn ly kỳ”. Đó là cách nói quá thiết tha mẫn nhạy về cái cảm trạng ông sinh ra đời và làm thơ, nó đứng ở mép rìa cõi… điên, và ông bị cho “nói điên” là vì vậy.
Khi được ai đó mời ăn tô phở hay hủ tiếu, ông thường lựa ăn… thịt trước. Người ta hỏi “ăn vậy sao ngon?”, ông đáp ngay “thì cái ngon nên ăn trước chớ rủi chết bất tử thì sao”! Qua đó, người ta dễ kết luận “Bùi Giáng điên”, nhưng rõ ràng là sâu xa trong ông, cái chết luôn ám ảnh thường trực. Có lần ăn mì Quảng (món ăn rất quen thuộc ở quê ông), ông chợt thở dài quay sang nói với ông bạn “ta ăn hai ngàn tô mì nữa ta chết”. Ông bạn ngớ người. Nhưng đó là một câu nói… thăm thẳm!
Điều đó lý giải vì sao, bên cạnh làm thơ, Bùi Giáng đã nhanh chóng cùng lúc đi sâu vào nghiên cứu, luận bàn triết học và có nhiều tác phẩm “đánh động” về lĩnh vực này.
Người trời?!
Những khi Bùi Giáng đứng chỉ tay rối rít giữa những ngã tư, nhiều người quen rất lo có ngày ông bị đụng xe (nhưng có cái lạ là ông không bao giờ bị đụng). Hỏi: “Đã có công an làm trật tự giao thông rồi, nhà thơ làm vậy chi nữa?”, ông chỉ tay lên trời đáp: “Ta đâu có chỉ đường cho loài người. Ta chỉ đường cho các thiên thần đang đi lại trên trời kia kìa”. Hồi giữa những năm 1960, có lần nhà văn - thầy giáo Hoàng Phủ Ngọc Tường đi tìm ông và thấy ông đang ngủ cạnh một ngôi mộ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Nhà văn đánh thức ông dậy, quát to: “Về nhà ngủ”. Ông ngồi dậy, đưa tay lên miệng suỵt suỵt mấy tiếng, bảo “Mi nói nhỏ thôi để những người dưới mộ ngủ ngon”.
Như thế cho thấy Bùi Giáng có năng lực… nhìn thấy người trời và người âm? Điều đó chỉ mình ông biết thôi, vì cũng chỉ mình ông nói ra. Nhưng qua các sự việc ấy, ít ra, ta thấy ông có khuynh hướng siêu hình mạnh mẽ. Nó đã chi phối không chỉ tư tưởng, thơ ca mà cả cuộc sống đời thường của ông. Ông quả là nhà thơ phiêu bồng theo cái nghĩa tinh mật của từ này.
Thiền tọa và tịnh khẩu
Có một Bùi Giáng ở nhà rất khác với Bùi Giáng ở ngoài đường phố. Nguyễn Thanh Hoài, người cháu rể ở chung với ông nhiều năm cuối đời, có lần hỏi “cháu thấy ở trong nhà mình đây, bác tỉnh táo và còn… khôn hơn người ta gấp trăm lần, vậy mà ai cũng nói bác điên, vậy bác điên giả bộ hay điên thiệt?” . Ông cười trả lời: “Ta vốn là con trai cả trong nhà. Nhưng vì mẹ ta là vợ thứ nên ta trở thành con thứ sáu, gọi là Sáu Giáng. Tuy thế, vì ta là con cả nên trong nhà từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, tụi nó đều bắt ta đứng ra giải quyết, nên chi thôi ta… điên cho nhẹ người. Vì vô lẽ ăn rồi cứ đứng ra giải quyết ba cái chuyện trời ơi. He he, đã điên thì làm sao mà đứng ra hòa giải cho được”. Đây cũng là một… triết lý, nhưng là một triết lý khôn “không thể nói” của con người nông thôn miền Trung còn lưu cữu trong con người nhà thơ phiêu bồng phố thị.
Cũng theo người cháu này, có những lúc Bùi Giáng ở hẳn trong nhà cả tháng trời. Suốt tháng đó, ông không hề mở miệng nói một câu, thậm chí cũng không đọc thơ vốn là nhu cầu “máu thịt” của ông. Ông chỉ nói một, hai từ trong những lúc cần thiết trao đổi. Ví dụ “ăn cơm không?”, đáp “ừ”; “ăn thêm chén nữa?”, đáp “không”… Và hình như “công án” tịnh khẩu dài lâu như thế không phải là điều dễ thực hành (ngay cả với người tu chân chính), cho nên người nhà thỉnh thoảng lại thấy ông lấy những áo quần cũ rách ra để ngồi vá. Ông vá thật khéo tay, miếng nào miếng nấy “đẹp như người ta vẽ”. Chúng ta đồ rằng, với “công án” vá may đó, ông đã thực hành pháp chánh niệm của Phật giáo (chăm chú an trú trong hiện tiền, với việc mình đang làm từng giây phút) để rồi mới có những miếng vá “tuyệt vời” như vậy.
Bùi Giáng thường thức dậy rất sớm, mới tù mù sáng, ông đã ra khỏi nhà. Và thường thì đến khi tối mịt, ông mới về. Nhưng trong nhiều năm cuối đời, dù dậy sớm “phiêu bồng” đâu đó đến khuya, mỗi ngày ông đều ngồi thiền khoảng một tiếng vào hai “thời”: khuya và sáng sớm. Nhiều vị tu sĩ cho biết: “Ngồi thiền đều đặn như thế giúp cho tâm trí và cơ thể cân bằng, có nhiều năng lượng sống”. Chúng ta lại đồ rằng, Bùi Giáng đã rất “tỉnh táo” khi chọn cách tịnh khẩu và ngồi thiền như thế. Tố chất siêu hình nhiều khi khiến ông có vẻ “điên”, nhưng cũng chính cái đó “đẩy” ông đến gần hơn với thế giới của tôn giáo nghiêm mật và minh triết.
Những lập ngôn minh triết
Không kể đến văn chương, ngay trong những trò chuyện đời thường, Bùi Giáng hay có những câu nói ấn tượng. Chúng mang tính “thông điệp” siêu hình riêng của ông chăng?
Có lần bị bệnh, người quen đến thăm, xuýt xoa, ông chậm rãi nói: “Ta có bệnh chi mô, chẳng qua ông trời hắn khó ở, hắn bệnh nên ta mới bệnh theo”. Lại là lời nói… điên, nhưng thực ra… chính xác lạ kỳ. Ai cũng biết, khi đất trời, thời tiết chuyển đổi, cơ thể con người cũng bị ảnh hưởng, và người đang yếu lúc ấy lâm bệnh là phải.
Năm 1969, ông vào Bệnh viện tâm thần Biên Hòa, nhưng chưa đầy một năm thì ra viện. Có người hỏi “bệnh viện chữa hay quá nhỉ?”, ông tỉnh rụi: “Đâu phải vậy. Tại ta ở ngoài đời điên số một, nhưng vào trong thì thấy mình… đồ bỏ. Có nhiều đứa hắn điên còn rực rỡ hơn mình nên ta phải tự động thôi điên… cho khỏe”. Dễ hiểu với cái kiểu “điên khôn” như vậy, ông mới viết được hàng chục cuốn sách triết học rối rắm mà thông tuệ. Cũng có khi ông làm bộ nói thay cho người đời bằng những câu thơ: “Ông điên mà dzui dzẻ thập thành/ Chúng tôi tỉnh táo mà đành buồn thiu”.
Vậy cho nên, lúc ra viện, ông đã trêu bác sĩ Nguyễn Tuấn Anh, người trực tiếp chữa bệnh điên cho ông, với câu nói thay cho ông bác sĩ: “Hỏi chuyện ngài để thăm dò chứng bệnh, rốt cuộc ta không còn biết là ngài điên hay chính ta điên”. Những câu nói như thế thường khiến những người dù là trí thức cao cấp chăng nữa cũng phải xem lại cuộc sống và cả những tư duy máy móc của mình.