Sò lông - Bổ huyết, tiêu tích

Sò lông thuộc họ sò (Arcidae) là một loài động vật thân mềm, có hai mảnh vỏ hình bầu dục, ngả về phía trước. Trong y học cổ truyền, sò lông được dùng với tên thuốc là mao kham. Dược liệu là thịt sò và vỏ sò.

Sò lông thuộc họ sò (Arcidae) là một loài động vật thân mềm, có hai mảnh vỏ hình bầu dục, ngả về phía trước. Trong y học cổ truyền, sò lông được dùng với tên thuốc là mao kham. Dược liệu là thịt sò và vỏ sò.

Thịt sò lông (mao kham nhục) có vị ngọt, mặn, tính ấm, không độc có tác dụng bổ huyết ôn trung, kiện vị, chữa thiếu máu, huyết hư, tiêu hóa kém, đau dạ dày. Cách dùng như sò huyết là đặt sò lông lên than hồng, nướng đến khi hai mảnh vỏ của sò nứt bung ra, nước béo chảy ra. Lấy thịt ăn nóng với gia vị. Tuy thịt sò lông không ngon bằng sò huyết nhưng cũng được nhân dân ưa chuộng và sử dụng khá rộng rãi. Có thể đem thịt sò lông phơi hoặc sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn, rồi uống mỗi lần 4-8g. Ngày 2-3 lần.

Sò lông thường được dùng chữa bệnh dưới dạng thức ăn, vị thuốc như sau: thịt sò lông 100g, sấy khô, tán bột, mỗi lần uống 2g với nước cơm để chữa viêm loét dạ dày, tá tràng mạn tính; nấu với rong biển 50g, ăn cái, uống nước; với râu ngô 30-60g chữa viêm gan, vàng da, sỏi mật; với thịt hến 100g và rễ hẹ 50g lại là thuốc chữa mồ hôi trộm.

Vỏ sò lông (mao kham tử) đã gỡ hết thịt, đem rửa sạch, đập vỡ vụn cho vào nồi trát kín, nung đến khi đỏ hồng. Lấy ra, để nguội, tán nhỏ, rây bột mịn. Hoặc nhúng ngay vỏ đang đỏ hồng vào dung dịch giấm với tỷ lệ 1kg vỏ cần 100ml dấm ăn, rồi mới tán, rây bột. Dược liệu có vị ngọt, mặn, tính hơi lạnh, có tác dụng tiêu tích, hóa đàm, chữa vết máu tụ, tím bầm, tê bại, đại tiện ra máu mủ, kiết lỵ, cam răng. Ngày dùng 12-20g bột dưới dạng nước sắc. Có thể làm viên uống. Dùng ngoài lấy bột xoa.

Nguồn: Sức khoẻ và Đời sống

Đọc thêm