Chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đối với đôi bên nam – nữ, gia đình, họ hàng, thậm chí là xã hội, mọi việc tưởng như đơn giản. Nhưng khi phải đối diện với pháp luật, “người trong cuộc” thiệt đủ đường vì pháp luật hôn nhân và gia đình không thừa nhận hôn nhân thực tế. Trước sự thiệt thòi này, bản thân người làm luật cũng thấy trăn trở...
"Lẽ mọn mà còn bày đặt"
Trong một cuộc tọa đàm về vấn đề kết hôn, anh Dương Văn T. ở Bến Tre đã có lời khuyên với các bạn trẻ đại ý là đừng bao giờ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (ĐKKH). Bởi đó sẽ là sai lầm cả về mặt tình cảm lẫn luật pháp, mà thường thì người gánh chịu sẽ là phụ nữ và những đứa trẻ.
|
Hình minh họa |
Anh T. là minh chứng cho giai đoạn chung sống giữa mẹ và cha anh. Tuy nhiên, giữa hai người lại không hề có ĐKKH. Trước đó, cha anh T. đã có kết hôn với người phụ nữ khác, sau đó hai người chia tay vì không hợp. Nhưng họ không ra tòa ly hôn vì giấy ĐKKH bị mất. Kém hiểu biết về luật pháp nên ông nghĩ rằng cuộc hôn nhân như vậy là xong. Sau đó, cha anh T. về sống với mẹ anh không ĐKKH.
Trong thời gian chung sống, cha và mẹ anh T. làm ra nhiều tài sản gía trị và đều đứng tên cha anh. Rồi cha anh T. mất, người vợ cũ đột ngột xuất hiện, tuyên bố giữa bà ta và cha anh vẫn còn quan hệ hôn nhân, nên đương nhiên tài sản sẽ thuộc về bà ta và các con, còn mẹ con anh T. không có phần, do hôn nhân không được thừa nhận.
Kết quả ra tòa cũng cho thấy, quan hệ giữa cha và mẹ anh do không được pháp luật công nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên không có quyền thừa kế tài sản của cha anh. “Lẽ mọn mà còn bày đặt, cả đời tôi không quên được câu nói chua cay của bà vợ cũ của cha”, anh T. ngậm ngùi.
Thừa nhận hay không thừa nhận?
Câu chuyện buồn của mẹ con anh T. không hiếm nếu nhìn ở góc độ Luật Hôn nhân – Gia đình hiện hành. Luật HNGĐ năm 2000 quy định việc chung sống như vợ chồng không có ĐKKH thì không được thừa nhận là có quan hệ vợ chồng (khoản 1 Điều 11).
Sống thử có phải là hôn nhân thực tế? Theo quan điểm của chuyên gia pháp lý không thể đồng nhất “chung sống như vợ chồng” với hiện tượng “sống thử”. Chung sống như vợ chồng là trường hợp chung sống không có ĐKKH, nhưng có mục đích xác lập hôn nhân và có sự công khai thông qua những sự kiện nhất định, như: tổ chức lễ cưới; được gia đình một trong hai bên thừa nhận; được cộng đồng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền công nhận; giữa hai bên đã công khai thực hiện các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau… |
Điều đáng nói là trước khi Luật HNGĐ năm 2000 có hiệu lực, việc hai người nam – nữ đã chung sống như vợ chồng, có con chung, không vi phạm các điều cấm của pháp luật thì dù không có đăng ký kết hôn, cuộc hôn nhân đó cũng được luật pháp công nhận là hôn nhân thực tế.
Từ sự công nhận này, người phụ nữ và trẻ em (thường là những người người yếu thế trong gia đình) có sự bảo hộ của pháp luật khi người chồng, người cha có những nghĩa vụ theo luật định đối với người vợ và những đứa trẻ sinh ra trong hôn nhân thực tế.
Việc Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành không tiếp tục thừa nhận hôn nhân thực tế (khi Luật HNGĐ hiện hành có hiệu lực, các cơ quan tư pháp cả nước thống kê có khoảng 300.000 cặp đôi chung sống với nhau thuộc diện bắt buộc phải đi đăng ký kết hôn) đã dẫn đến rất nhiều hệ quả tiêu cực cho gia đình và cho xã hội: nhiều trường hợp người phụ nữ và trẻ em bị phụ bạc, ngược đãi và bỏ rơi...
Theo các chuyên gia pháp lý, pháp luật hiện hành mới chỉ quan tâm đến việc thừa nhận hay không thừa nhận hôn nhân, mà chưa có các quy định cần thiết để điều chỉnh các vấn đề nhân thân và tài sản phát sinh từ sự chung sống đó (quan hệ cha mẹ và con; quan hệ giữa các bên chung sống...) mà trường hợp nhà anh T. là một ví dụ.
Khi Luật HN-GĐ lấy ý kiến để sửa đổi, nhiều địa phương đã nêu quan điểm rằng dù pháp luật không thừa nhận, nhưng hôn nhân thực tế đã, đang và sẽ tồn tại, đòi hỏi pháp luật cần có cách tiếp cận khác để giải quyết vấn đề, góp phần định hướng quan hệ xã hội. Có thể không thừa nhận hôn nhân thực tế, tuy nhiên cần quy định cụ thể về quyền nhân thân, quyền về tài sản, quyền giữa cha mẹ và con giữa các bên có quan hệ chung sống như vợ chồng.
Như vậy cho đến thời điểm này, khi luật sửa đổi chưa “chốt” lại thì câu hỏi nên thừa nhận hay không thừa nhận hôn nhân thực tế vẫn đang được đặt ra.
Ban soạn thảo Luật HN-GĐ đã và đang có hai phương án xây dựng luật, trong đó đáng lưu ý là có thể thừa nhận việc nam, nữ có quan hệ chung sống như vợ chồng có quan hệ hôn nhân nếu việc chung sống đáp ứng được các điều kiện pháp lý để được công nhận, như: đã có một thời gian chung sống nhất định (ví dụ, 3 năm trở lên), đã thực hiện các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, có con chung, tài sản chung, được gia đình thừa nhận... Việc thừa nhận hôn nhân của nam, nữ chung sống như vợ chồng do Tòa án nhân dân quyết định.
Hồng Minh