Tập hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri tỉnh Thái Nguyên gửi tới kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII

Trước kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII, cử tri tỉnh Thái Nguyên đã có 66 ý kiến, kiến nghị gửi tới kỳ họp. Sau đây là tập hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri tỉnh Thái Nguyên.

Trước kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII, cử tri tỉnh Thái Nguyên đã có 66 ý kiến, kiến nghị gửi tới kỳ họp. Sau đây là tập hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri.

Các ý kiến, kiến nghị đối với Quốc hội và Chính phủ

I - Quốc hội
1.    Đề nghị bổ sung quy định trong Luật Thanh tra có tổ chức thanh tra trong Ban quản lý các khu công nghiệp vì Ban quản lý các khu công nghiệp là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp quản lý các khu công nghiệp nên phải có tổ chức thanh tra và không nên quy định Ban quản lý các khu công nghiệp lọai I mới có tổ chức thanh tra.
2.    Đề nghị Quốc hội xem xét và sửa đổi một số quy định về Luật đất đai năm 2003 phù hợp với thực tiễn như: đối với việc Nhà nước thu hồi đất để  phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, có 2 loại dự án đầu tư được áp dụng:  một là dự án thuộc nhóm nhà nước thu hồi để xây dựng khu công nghiệp, dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ ODA, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài; hai là dự án không thuộc nhóm dự án nhà nước thu hồi mà do nhà đầu tư thoả thuận với chủ sử dụng đất về giá bồi thường. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cho thấy sự chênh lệch nhau về giá bồi thường hỗ trợ đất thuộc dự án nhà nước thu hồi thấp hơn đất được nhà đầu tư thoả thuận với chủ sử dụng đất, dẫn đến công tác bồi thường  giữa các chủ sử dụng đất và nhà đầu tư  rất khó khăn.
3.    Đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung một số quy định còn bất cập đối với Luật Cán bộ, công chức. Cụ thể:Theo Điều 85 Luật cán bộ, công chức về điều khoản chuyển tiếp đối với những người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập quy định: "Các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến những người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập mà không phải là cán bộ, công chức quy định tại Luật này được tiếp tục thực hiện cho đến khi ban hành Luật viên chức". Nhưng tại Điều 86 về hiệu lực thi hành Luật cán bộ, công chức lại quy định"... Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010... Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 26 tháng 02 năm 1998; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 28 tháng 4 năm 2000; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 29 tháng 4 năm 2003 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực." Như vậy Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 29/4/2003 hết hiệu lực kể từ ngày (01/01/2010) khi Luật cán bộ, công chức năm 2008 có hiệu lực. Việc này dẫn đến các văn bản hướng dẫn như Nghị định, Thông tư... cũng hết hiệu lực theo.
4.    Hiện nay tội phạm công nghệ cao ngày càng gia tăng, có diễn biễn phức tạp, tác động đến tình tình an ninh chính trị của các địa phương, việc xử lý hành vi vi phạm còn gặp nhiều khó khăn do pháp luật chưa có quy định cụ thể về các vi phạm này. Đề nghị Quốc hội xem xét quy định bổ sung vào Bộ luật Hình sự loại tội phạm này.
5.    Đề nghị Quốc hội quan tâm hơn nữa đến chất lượng trả lời chấp vấn của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tại các phiên chấp vấn và trả lời chấp vấn của kì họp Quốc hội nhằm đảm bảo hiệu quả thực sự của nội dung này, vì đây là vấn đề được cử tri cả nước quan tâm. Đồng thời, thực hiện quyền bãi miễn các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn nếu không hoàn thành tốt nhiệm vụ.

II- Chính phủ
1.    Việc vay vốn ngân hàng để sản xuất hiện nay gặp khó khăn, do thời gian cho vay ngắn không đảm bảo chu trình thu hồi vốn trả nợ ngân hàng. Đề nghị Chính phủ nghiên cứu và chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có chính sách tăng thời gian cho vay đối với hộ nông vay để phục vụ phát triển sản xuất.
2.    Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 ( khoá X) về nông nghiệp, nông dân nông thôn, Chính phủ đã có quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04 tháng 6 năm 2010 Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. Đề nghị Chính phủ ưu tiên bố trí nguồn vốn cho chương trình để tỉnh Thái Nguyên triển khai đúng tiến độ đến năm 2015 có 20% xã đạt tiêu chí nông thôn mới.
3.    Đề nghị công bố rộng rãi cho nhân dân biết thông tin về những sai phạm và việc xử lý những sai phạm của Tập đoàn Vinashin trong thời gian qua của Nhà nước; đồng thời làm rõ trách nhiệm của cá nhân, của Chính phủ, của các cơ quan chức năng có thẩm quyền liên quan.
4.    Hiện nay, các Luật, pháp lệnh đã được ban hành nhưng một số văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư hướng dẫn... chậm được ban hành, triển khai. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn để các ngành, địa phương triển khai tổ chức thực hiện.
5.    Luật Công chức đã có hiệu lực nhưng còn một số văn bản hướng dẫn chưa ban hành kịp thời gây khó khăn cho các đơn vị khi thực hiện, đề nghị các Bộ, ngành Trung ương sớm ban hành văn bản dưới luật để luật công chức sớm đi vào cuộc sống.
6.    Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn chỉ đạo các địa phương thực hiện các quy định của Nghị Quyết số 18/2008/QH12 ngày 03/6/2008 của Quốc hội khoá 12 về đẩy mạnh thực hiện chính sách xã hội hoá để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân để ngành y tế thực hiện có hiệu quả  các nội dung Nghị quyết này.

Các ý kiến, kiến nghị thuộc các lĩnh vực

I- Nông nghiệp và phát triển nông thôn
1.    Hiện nay rừng trên núi đá là hệ sinh thái cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Đề nghị Chính phủ xem xét quy định  thành lập khu bảo tồn thiên nhiên trực tiếp quản lý bảo vệ đối với diện tích rừng núi đá tập trung. Những diện tích nhỏ nên giao cho hộ dân quản lý bảo vệ, tuy nhiên đề nghị tăng mức hỗ trợ cho việc bảo vệ rừng theo hướng  đảm bảo cho hộ gia đình  là 2,5kg gạo /nhân khẩu/ha/tháng nhận khoán bảo vệ.

II – Lao động – thương binh – xã hội
1.    Các đối tượng là công nhân nghỉ thôi việc một lần do sắp xếp chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước trước đây theo Quyết định 176/CP tiếp tục đề nghị nhà nước có chính sách hỗ trợ vì phần lớn trong số họ khi trở về địa phương không có đất sản xuất, đời sống gặp nhiều khó khăn.
2.    Nghiên cứu, thay thế hình thức hỗ trợ trực tiếp bằng tiền cho các hộ nghèo bằng hình thức tạo việc làm ổn định để các hộ nghèo có thể thoát nghèo bền vững trong việc triển khai, thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo.
3.    Quy trình, thủ tục xét duyệt hồ sơ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học còn rườm rà. Việc niêm yết công khai hai lần danh sách đối tượng xét chất độc hoá học là không cần thiết và thiếu tính nhân văn. Đề nghị nghiên cứu rút gọn quy trình xét duyệt đảm bảo xét duyệt đúng, đủ không ảnh hưởng tới đối tượng được xét duyệt và nhân thân.
4.    Đề nghị cần đầu tư mở rộng Trung tâm quản lý tâm thần với quy mô quản lý từ 150-300 đối tượng ở mỗi tỉnh.
5.    Thời gian qua người lao động trong diện nghèo và dân tộc thiểu số thuộc 62 huyện nghèo đã được hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước theo Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ . Đề nghị Chính phủ xem xét bổ sung đối tượng người nghèo ở các vùng khó khăn không thuộc 62 huyện nghèo cũng được hưởng chính sách hỗ trợ trên.
6.    Đề nghị Bộ tiếp tục nghiên cứu, xem xét và có quy định cụ thể theo hướng đơn giản hóa các thủ tục kê khai vừa bảo đảm đúng quy định và phù hợp với thực tế để có giải pháp giải quyết các chính sách tồn đọng sau chiến tranh cho các đối tượng là người có công với cách mạng, người có công với các mạng bị nhiễm chất độc hóa học, cán bộ tiền khởi nghĩa, lão thành cách mạng, thanh niên xung phong, thương binh và người hưởng chính sách như thương binh.. do thủ tục hồ sơ, kê khai còn rườm rà, nhiều người thực tế có công, có tham gia thanh niên xung phong là thương binh nhưng không có giấy tờ gốc và không còn người làm chứng nên đến nay vẫn chưa được hưởng chế độ.
7.    Chế độ chính sách đối với người tham gia kháng chiến chống Mỹ bị nhiễm chất độc hoá học thiếu tính thống nhất, đồng bộ và tính khả thi. Cụ thể là các văn bản: Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT; Thông tư số 08/2009/TT-BLĐTBXH; Công văn số 346/CV-NCC-CS ngày 12/5/2010 của Cục Người có công; Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/02/2008 của  Bộ Y tế quy định 16 loại bệnh có liên quan đến phơi nhiễm CĐHH/dioxin, trong đó có 9 loại bệnh ung thư và theo quy định tại công văn số 334/NCC của Cục Người có công  ngày 06/5/2010 thì bệnh phải được điều trị  từ năm 2007 trở về trước và phải có giấy ra viện và bệnh án. Nếu quy định như vậy thì những người tham gia kháng chiến bị ảnh hưởng CĐHH đến nay sẽ khó có ai được hưởng. Với những bất cập trên đề nghị Bộ xem xét, sửa đổi bổ sung một số quy định cho phù hợp với thực tiễn, đảm bảo chế độ công bằng trong xã hội.
8.    Quy trình, thủ tục xét duyệt hồ sơ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học còn rườm rà. Việc niêm yết công khai hai lần danh sách đối tượng xét chất độc hoá học là không cần thiết và thiếu tính nhân văn. Đề nghị nghiên cứu rút gọn quy trình xét duyệt đảm bảo xét duyệt đúng, đủ không ảnh hưởng tới đối tượng được xét duyệt và nhân thân.
9.    Hiện nay theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2006/TTLT /BLĐTBXH-BTC-BYT ngày 21/11/2006 của Bộ LĐTB&XH, Bộ Tài chính,  Bộ Y tế quy định thời gian điều dưỡng luân phiên 5 năm một lần đối với một số trường hợp là cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng của liệt sĩ, người có công nuôi liệt sĩ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động trong kháng chiến; người có công giúp đỡ cách mạng trong kháng chiến; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học; thương binh, bệnh binh có tỉ lệ suy giảm khả năng lao động do thương tật, bệnh tật dưới 81% đang sống tại các gia đình; người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày. Cử tri đề nghị các Bộ: LĐTB& XH, Bộ Tài chính, Bộ y tế  xem xét quy định thời gian điều dưỡng luân phiên ít hơn 5 năm/ lần nhằm đảm bảo nhu cầu được chăm sóc sức khoẻ của các đối tượng .
10.    Đề nghị Cục Người có công - Bộ Lao động – TBXH bỏ quy định về “thời gian điều trị từ 03 năm trở lên trước ngày Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ban hành” tại Công văn số 334/NCC. Quy định này chưa phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn vinh và chăm sóc người có công, gây rất nhiều dư luận bức xúc trong Cựu chiến binh.
11.    Đối với trường hợp dị dạng, di tật và vô sinh: Đề nghị sửa đổi theo hướng chỉ cần có xác nhận của UBND cấp xã, phường về tình trạng dị dạng, dị tật (ở mức độ nào) hay vô sinh là đủ cơ sở đề xem xét giải quyết chế độ mà không cần có kết luận của Hội đồng y khoa cấp tỉnh như hiện nay.
12.    Đề nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chỉ đạo các cơ quan của Bộ và phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý hoạt động của các doanh nghiệp đã được cấp phép hoạt động XKLĐ để phát hiện, chấn chỉnh, xử lí nghiêm minh các vi phạm của doanh nghiệp trong hoạt động XKLĐ. Đồng thời, trên cơ sở thẩm định kỹ các đơn hàng của các doanh nghiệp trước khi tiến hành tuyển chọn lao động (như các điều khoản về: điều kiện về ăn, ở, thu nhập, ổn định việc làm...), Bộ nên hỗ trợ giới thiệu các doanh nghiệp có uy tín, có năng lực đưa người đi XKLĐ về tham gia tuyển dụng ở các địa phương để tạo niềm tin cho người lao động.
13.    Đề nghị xem xét sửa đổi, bổ sung Thông tư số 21/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng theo hướng quy định rõ ràng về chế độ báo cáo, trường hợp người Việt Nam đi XKLĐ thông qua các doanh nghiệp làm công tác XKLĐ nhưng bị mất việc làm, phải về nước trước thời hạn., chế tài xử lý nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp không báo cáo kết quả tuyển chọn lao động đi làm việc ở nước ngoài, tình hình lao động và phối hợp giải quyết các tranh chấp, rủi ro của người lao động… để cơ quan chức năng địa phương quản lý.
14.    Đề nghị Chính phủ nên quy định rõ về phân cấp quản lý các hoạt động về lĩnh vực XKLĐ cho địa phương để chủ động thực hiện vì hiện nay các quy định về phân cấp quản lý cho địa phương chưa rõ nên các địa phương rất lúng túng trong công tác quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động.
15.     Đề nghị Bộ ban hành quy định về các giải pháp chống trốn, xử lý nghiêm khắc đối với những lao động bỏ trốn ra ngoài. Đồng thời ký kết các hiệp định, quy định giữa Chính phủ Việt Nam với các nước tiếp nhận lao động nhằm hạn chế, ngăn chặn và xử lý kịp thời những lao động bỏ trốn, vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật.
16.    Đề nghị Bộ chính thức tiến hành kiểm toán đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ.
17.    Thời gian qua người lao động trong diện nghèo và dân tộc thiểu số thuộc 62 huyện nghèo đã được hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước theo Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ . Đề nghị Chính phủ xem xét bổ sung đối tượng người nghèo ở các vùng khó khăn không thuộc 62 huyện nghèo cũng được hưởng chính sách hỗ trợ trên.

III- Giáo dục – Đào tạo
1.    Theo Thông tư liên tịch 71/2007/TTLT-BGDĐT-BNV giáo viên Mầm non phải làm việc 08h/ngày. Hơn nữa trên thực tế, giáo viên mầm non vẫn phải làm việc 10 giờ/ngày. Do vậy đề nghị Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét bổ sung biên chế hoặc có cơ chế ưu đãi đối với các giáo viên mầm non.
2.    Theo Thông tư liên tịch số 35/2006/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 23/8/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ quy định mức biên chế đối với giáo viên tiểu học là 1,5 giáo viên/lớp dạy 02 buổi là thấp, không thực hiện được. Đề nghị Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo nâng tỷ lệ lên 1,7 giáo viên/lớp 2 buổi đối với tiểu học, 2,1 giáo viên/lớp đối với trung học cơ sở. Việc quy định 23 tiết/giáo viên/tuần là không phù hợp vì đối với giáo viên tiểu học để thực hiện được như vậy sẽ phải dạy nhiều lớp, nhiều khối sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả học tập của học sinh. Hơn nữa quy định 1,5 GV/lớp sẽ khó thể thực hiện được đối với cấp tiểu học vì trừ số tiết kiêm nhiệm theo Thông tư số  28/2009/TT-BGDĐT quy định về chế độ làm việc đối với giáo viên phổ thông và giáo viên chuyên  Nhạc, Họa không thể dạy như giáo viên dạy 9 môn. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ xem xét điều chỉnh cho phù hợp.

IV-  Giao thông - Vận tải
1.    Đề nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng đường cao tốc Hà Nội- Thái Nguyên và đầu tư nâng cấp mở rộng đường Quốc lộ 3 cũ.

V – Kế hoạch - Đầu tư
1.    Đề nghị Chính phủ hỗ trợ nguồn lực, đầu tư kinh phí để củng cố cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề cấp tỉnh đạt chuẩn theo quy định, trong đó hỗ trợ kinh phí để xây dựng 02 trường dạy nghề của tỉnh đạt chuẩn trường dạy nghề khu vực: Trường Trung cấp nghề Nam Thái Nguyên và trường nghề Dân tộc nội trú.
2.    Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên là bệnh viện thuộc khu vực miền núi chủ yếu tiếp nhận bệnh nhân nghèo, khả năng xã hội hoá y tế rất thấp. Đề nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm và đầu tư nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để tạo cơ hội cho bệnh viện và các cơ sở y tế trong khu vực có nhiều cơ hội phục vụ chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
3.    Đề nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm chỉ đạo các Bộ, ngành Trung ương bố trí nguồn vốn đối với các dự án chưa được đầu tư hoàn thành đã nêu trong Nghị quyết 37/NQ-TW ngày 01/7/2004 của Bộ chính trị về “ phương  hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ” , xây dựng Thái Nguyên thành trung tâm kinh tế, giáo dục, y tế, văn hoá, quốc phòng của vùng trong giai đoạn 2011-2020:
+ Về chủ trương : Đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành sớm xem xét để tiếp tục thực hiện các đề án về giáo dục và đào tạo, y tế, nhà ở sinh viên, giao thông thuỷ lợi vì đến nay chưa thực hiện xong đề án do chưa bố trí được yêu cầu về nguồn vốn được phê duỵêt (do trượt giá).
+ Về cơ cấu và dự kiến mức vốn bố trí cho các công trình: Đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan xem xét cấp bổ sung vốn trái phiếu Chính phủ còn lại của đề án, dự án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ đã được phê duyệt trong giai đoạn 2003-2010 và các dự án mới giai đoạn 2011 đến  2015  cụ thể như sau:
* Nhu cầu vốn trái phiếu chính phủ kế hoạch 5 năm 2011 – 2015 của các công trình đã được phê duyệt giai đoạn 2006 – 2010 còn thiếu là: 1.992.992 triệu đồng.
          a/ Đề án kiên cố hoá trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2008-2012: Số vốn trái phiếu Chính phủ còn thiếu của đề án là:  92.600 triệu đồng và số vốn còn thiếu do trượt giá là 388.962 triệu đồng. Tổng cộng số vốn trái phiếu Chính phủ còn thiếu để thực hiện đề án là: 481.562 triệu đồng.
Trong đó:    - Kiên cố hoá lớp học và nhà công vụ cho giáo viên: 103.994 triệu
        - Ký túc xá sinh viên:                         377.568 triệu
Kế hoạch ban đầu của đề án: thực hiện xây dựng: 2.519 phòng học và 37.416 m2 nhà công vụ.
Kế hoạch vốn đầu tư ban đầu là: 435.711 triệu đồng, trong đó: vốn trái phiếu Chính phủ là 348.569 triệu đồng (80%), ngân sách địa phương 87.142 triệu đồng (suất vốn đầu tư được tính là: 148 triệu đồng/1phòng học; 1,67 triệu đồng/1m2 nhà công vụ). Do trượt giá nên để xây dựng 2.519 phòng học và 37.416 m2 nhà công vụ theo đề án được duyệt đến nay cần số vốn đầu tư là: 897.900 triệu đồng, trong đó: vốn trái phiếu Chính phủ là 718.300 triệu đồng (80%), ngân sách địa phương 179.600 triệu đồng (suất vốn đầu tư khoảng 300 triệu đồng/1phòng học; 3,8 triệu đồng/1m2 nhà công vụ).
b/ Đề án xây dựng cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và bệnh viện đa khoa liên huyện giai đoạn 2008-2010: Số vốn trái phiếu Chính phủ còn thiếu để hoàn thành đề án là: 167.566 triệu đồng, xây dựng các bệnh viện thuộc tuyến tỉnh là 495.150 triệu đồng (Tổng số vốn thiếu đầu tư cho y tế là: 662.716 triệu đồng)
c/ Đề án xây dựng ký túc xá sinh viên: Số vốn trái phiếu Chính phủ còn thiếu để hoàn thành các dự án là: 728.876 triệu đồng của 9 dự án đã khởi công trong năm 2009 và 5 dự án đã đuợc UBND tỉnh phê duyệt triển khai thực hiện trong năm 2010-2011.
d/ Dự án thuỷ lợi miền núi và đường ôtô đến trung tâm xã bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003-2010: số vốn trái phiếu Chính phủ còn thiếu so với dự toán đuợc phê duyệt đối với dự án đường ô tô đến trung tâm xã và  dự án thuỷ lợi miền núi là: 119.838 triệu đồng để đầu tư hoàn thành các công trình theo dự án đã được phê duyệt.
* Nhu cầu vốn trái phiếu chính phủ kế hoạch 5 năm 2011 – 2015 cho các công trình mới (chưa nằm trong danh mục sử dụng vốn trái phiếu chính phủ từ giai đoạn 2003 – 2010) là 15.222.653 triệu đồng.
    a- Công trình thuộc lĩnh vực y tế:                                     583.016 triệu
Trong đó bệnh viện thuộc tuyến tỉnh (02 dự án) :                     583.016 triệu
    b- Các công trình thuộc lĩnh vực Giáo dục và đào tạo:     3.213.373 triệu
Trong đó: - Các công trình kiên cố lớp học và nhà công vụ cho giáo viên
                 (09 dự án) :                          339.600 triệu
        - Ký túc xá sinh viên (07 dự án):                         2.873.773 triệu
    c - Vốn Nông lâm thuỷ lợi :                                          2.151.465 triệu
Trong đó:    - 07 công trình thuỷ lợi miền núi:                        1.591.684 triệu
        - 09 công trình nâng cấp hồ chứa:                          246.031 triệu
        - Các công trình thuỷ lợi khác:                   313.750 triệu
    d. Các công trình thuộc lĩnh vực Giao thông vận tải:     9.274.799 triệu
Trong đó:    - Dự án đường đến trung tâm xã:                           159.047 triệu
        - 24 dự án giao thông khác:                            9.115.752 triệu
4. Đề nghị bổ sung ngân sách và tăng cường vận động các tổ chức, cá nhân tham gia ủng hộ phong trào “ đền ơn đáp nghĩa” để nâng cấp sửa chữa , tôn tạo hoặc xây mới các công trình ghi công các anh hùng liệt sỹ.

VI- Y tế
1.    Đề nghị Nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế tuyến dưới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong việc khám, chữa bệnh nhằm giải quyết tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên.
2.    Đề nghị tiếp tục tăng cường đào tạo về chuyên môn, đạo đức cho đội ngũ y bác sỹ và sửa đổi, bổ sung chính sách bố trí, thu hút đội ngũ y bác sĩ có trình độ chuyên môn cao về cơ sở tuyến huyện, xã nhằm đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, nhất là tuyến xã nơi đang triển khai chu trương khám chữa bệnh ban đầu về bảo hiểm y tế.
3.    Hiện nay, Bệnh viên Đa khoa Trung ương Thái Nguyên là cơ sở khám chữa bệnh cho trẻ em tỉnh Thái Nguyên và các bệnh nhi nặng từ các tỉnh lân cận khu vực miền núi phía Bắc, tỷ lệ trẻ em điều trị tăng 3500-4000 lượt/năm ( trong đó 800 - 1000 lượt trẻ sơ sinh, tỷ lệ trẻ sơ sinh non thấp tháng chiếm 60%, tỷ lệ trẻ em cấp cứu 70%), do đó cần có chuyên khoa sâu điều trị tích cực . Đề nghị Chính phủ xem xét quan tâm để khoa nhi của bệnh viện phát triển thành trung tâm hồi sức cấp cứu trẻ em.
4.    Đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo các Bộ, ngành Trung ương đẩy  nhanh tiến  độ  thực  hiện  Đề án hình thành các trung tâm y tế khu vực của khu vực Đông Bắc đặt tại tỉnh tại tỉnh Thái Nguyên đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân theo Nghị quyết 37/NQ-TW ngày 01/7/2004 của Bộ chính trị.
5.    Đề nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm đến chính sách đãi ngộ đặc thù cho cán bộ y tế đặc biệt là nâng mức phụ cấp trực ca phù hợp với  thực tế, hiện nay chế độ phụ cấp chi cho ca trực trong ngành y tế còn bất cập cào bằng từ hộ lý đến Bác sỹ, Phó giáo sư, Tiến sỹ... đều hưởng mức 45.000 đồng /người/đêm trực đối với bệnh viện Trung ương, 35.000 đồng đối với bệnh viện tuyến tỉnh, 25.000 đồng đối với bệnh viện tuyến huyện; ban hành chính sách thu hút cán bộ, chế độ đãi ngộ cho cán bộ y tế xã và nhân viên y tế thôn bản.
6.    Đề nghị Chính phủ có chính sách ưu tiên, phụ cấp cho cán bộ y tế công tác ở miền núi, vùng sâu vùng xa; tăng cường trợ giúp học bổng ưu đãi đi học ở trong và ngoài nước đối với cán bộ y tế miền núi. Vì thời gian đào tạo 01 cán bộ y tế  nhiều hơn so với các ngành khác( 6 năm học bác sỹ, 7 năm học tiến sỹ), nhưng chế độ tiền lương được tính bằng các ngành khác, chính sách thu hút chưa hấp dẫn, đa số các bác sỹ không yên tâm công tác ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa, đã xảy ra tình trạng cán bộ sau khi đào tạo chuyên sâu đã tự bỏ  việc và xin chuyển công tác gây tình trạng thiếu hụt bác sỹ.
7.    Hiện nay chế độ Bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi còn bất cập, có trẻ đã đủ tuổi đến trường nhưng chưa đến ngày nhập học nên chưa có BHYT học sinh, nếu trường hợp không may các cháu bị bệnh hoặc bị tai nạn thì khi vào viện các cháu phải đóng viện phí . Đề nghị Bảo hiểm Xã hội xem xét quan tâm đến chính sách này.
8.    Thông tư liên tịch số 09/TTLB/YTTC quy định đối với bệnh nhân bị tai nạn giao thông mặc dù có tham gia bảo hiểm y tế chỉ được chi trả bảo hiểm y tế với điều kiện phải có biên bản xác nhận là không vi phạm pháp luật giao thông của công an cấp huyện trở lên thì mới được thanh toán bảo hiểm là không phù hợp với thực tế. Cử tri kiến nghị sửa đổi quy định này.
9.    Hiện nay việc thực hiện quyết định 09/Q Đ-BYT ngày 20/2/2008 của Bộ y tế còn nhiều bất cập và phi thực tế. Trong đó quy định 16 bệnh (9 bệnh ung thư) mới được công nhận là nhiễm chất độc hoá học. Vậy nếu chỉ mắc 16 bệnh đó mới thuộc trách nhiệm của Mỹ thì trách nhiệm gây thiệt hại của Mỹ quá ít.  Hơn nữa tại công văn 334 của Cục người có công quy định phải có bệnh án trước ngày 20/2/2008 mới được hưởng nếu mắc vào 16 bệnh này. Cũng vì vậy mà tỉnh Thái Nguyên có trên 7000 người bị trả lại hồ sơ vì những quy định trên. Từ thực tế trên, đề nghị: Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh xã hội tiếp tục nghiên cứu sửa đổi Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/2/2008 về việc ban hành Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hoá học/dioxin theo hướng mở rộng đối tượng được hưởng.

VII – Tài nguyên và Môi trường
1.    Tại Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về việc Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư” (có hiệu lực kể từ ngày 1-10-2009) có một số điểm quy định chưa phù hợp với thực tiễn địa phương như: “Chính sách hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong địa giới hành chính phường, trong khu dân cư thuộc thị trấn, dân cư nông thôn; thửa đất nông nghiệp tiếp giáp với ranh giới phường, ranh giới khu dân cư thì được hỗ trợ bằng 20-50% giá đất ở trung bình của khu vực có đất bị thu hồi theo quy định, diện tích được hỗ trợ không quá 5 lần hạn mức giao đất ở địa phương. Còn hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi đất nông nghiệp mà địa phương không có đất để bồi thường thì được hỗ trợ bằng tiền từ 1,5 - 5 lần giá đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi”. Nếu quy định như vậy sẽ có sự chênh lệch nhau về giá trị đất và việc bồi thường hỗ trợ của loại đất nông nghiệp trong đô thị và đất nông nghiệp tại khu vực nông thôn khi ranh giới cách nhau có một con đường.. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan sửa đổi điều chỉnh cho phù hợp nhằm giảm sự chênh lệch này.
2.    Hiện nay việc mua bán trái phép khoáng sản vẫn đang xảy ra từ Thái Nguyên sang Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng và sang Trung Quốc gây bất ổn định về an ninh của địa phương. Đề nghị Chính phủ có biện pháp ngăn chặn triệt phá các tụ điểm thu mua tập kết quặng trái phép ở một số địa phương lân cận như Yên Thế -  Bắc Giang nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên khoáng sản và ổn định trật tự an ninh địa phương.
3.    Đề nghị Chính phủ cần quy định dành một phần kinh phí cho việc xây dựng tu sửa cơ sở hạ tầng nhằm tạo sự ổn định cho người dân ở các địa phương có hoạt  động khai thác khóang sản.

VIII- Nội vụ
1.    Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, Ngành sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ đối với cán bộ công chức xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
2.    Đề nghị chính phủ xem xét sớm sửa đổi Quyết định số 58/QĐ-TTg ngày 3/2/1994 của Thủ tướng chính phủ quy định một số vấn đề về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở và Quyết định số 131/TTg ngày 04/3/1995 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi một số điều trong Quyết định số 58/TTg theo hướng đưa cán bộ y tế xã, phường, thị trấn vào ngạch viên chức nhà nước cho phù hợp với tình hình hiện nay.
3.    Đề nghị Bộ LĐTBXH, Bộ Nội vụ quan tâm xem xét chế độ chính sách đối với cán bộ cơ sở đã có 20-30 năm công tác không liên tục, là phó các đoàn thể cấp xã, khi nghỉ hưu không được cộng dồn năm để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
4.    Chính phủ tiếp tục thực hiện chế độ chính sách theo Nghị định số 132/2007/NĐ-CP ngày 08/08/2007 của Chính phủ về tinh giản biên chế đối với viên chức và để tạo cơ hội việc làm cho sinh viên mới tốt nghiệp ra trường.
5.    Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, xem xét sửa đổi Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 2 của Nghị định vì nếu thực hiện luân chuyển đối với cán bộ xã vùng sâu, vùng xa, biên giới thì việc luân chuyển không thuận lợi cho việc đi lại hoặc bố trí chỗ ở cho cán bộ tại xã, thời gian luân chuyển quá ngắn.
6.    Đề nghị Bộ Nội vụ có quy định việc tăng 01 biên chế/01 Trạm y tế cấp xã để đảm nhiệm công tác dân số thay cho chuyên trách dân số xã trước đây, trên cơ sở đó ngành y tế các địa phương có căn cứ trình HĐND tỉnh, UBND tỉnh giao thêm 01 biên chế cho mỗi trạm y tế.
7.    Đề nghị thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đạt hiệu quả cao, đề nghị Bộ Nội vụ xem xét dành biên chế cho cán bộ công chức cấp xã làm công tác theo dõi  về đầu tư xây dựng  nông thôn mới.
8.    Về công tác tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, công chức, cử tri kiến nghị: Thực hiện cải cách trong việc thi tuyển, xét tuyển; Ban hành chính sách thi cạnh tranh vào từng vị trí chức danh trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp; Thực hiện thi tuyển cán bộ trước khi bổ nhiệm; Thực sự công khai, dân chủ trong công tác cán bộ; Thực hiện chi trả lương theo vị trí, tránh tình trạng trả lương theo bằng cấp đơn thuần nhưng hiệu quả làm việc thấp.
9.    Đề nghị thực hiện hình thức thi tuyển viên chức để chọn được người có năng lực, trình độ... đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác. Đồng thời có chính sách ưu tiên đối với những người có trình độ đào tạo trên chuẩn so với ngạch viên chức cần tuyển. Có chính sách đặc cách đối với sinh viên cử tuyển tốt nghiệp ra trường tuyển dụng không phải thi tuyển, xét tuyển.
10.    Nhiều cử tri phản ánh chính sách con thương binh được cộng 30 điểm vào tổng số điểm thi tuyển hoặc xét tuyển theo Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức chưa công bằng vì những đối tượng này đã được ưu tiên và hỗ trợ trong suốt quá trình học tập. Đề nghị Chính phủ xem xét, quy định hợp lý để lựa chọn người làm việc thực sự có tài.
11.    Đề nghị Chính phủ tăng cường công tác chỉ đạo các bộ, ngành chức năng sớm hoàn chỉnh chương trình, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp cho phù hợp với Luật cán bộ, công chức và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; chỉnh sửa bổ sung nội dung các tài liệu phục vụ cho công tác học tập phù hợp với tình hình thực tiễn trong công tác đào tạo hiện nay.
12.    Cử tri tiếp tục đề nghị Chính phủ có chế độ cho cán bộ làm chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp trước đây, có những người gắn cả cuộc đời công tác gắn bó với phong trào hợp tác xã hóa nông nghiệp của Đảng nhưng khi về nghỉ không có bất cứ chế độ gì.

IX- Công thương
1.    Đề nghị Chính phủ, các Bộ ngành tiếp tục quan tâm đầu tư xây dựng dự án đầu tư mở rộng sản xuất Công ty Cổ phần gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2 đảm bảo tiến độ công trình.
X- Ngân hàng
1.    Đề nghị bổ sung hộ cận nghèo, hộ đã thoát nghèo vào đối tượng được Ngân hành chính sách xã hội xem xét cho vay trong chương trình xóa đói giảm nghèo của địa phương.
2.    Đề nghị mở rộng, đa dạng hóa các hình thức cho vay vốn đi xuất khẩu lao động, cho phép sử dụng nguồn vốn vay từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm để cho vay bổ sung hoặc làm nguồn bảo lãnh để các đối tượng chính sách vay đủ kinh phí đóng góp khi tham gia đi XKLĐ. Ban hành cơ chế, chính sách thông thoáng hơn trong công tác vay vốn ngân hàng đi XKLĐ như: nâng mức vay không phải thể chấp ở các ngân hàng lên 50 triệu đồng, cho vay bằng hình thức tín chấp.
3.    Đề nghị Ngân hàng Chính sách Xã hội có giải pháp hỗ trợ người lao động không thể trả nợ bằng cách xem xét để khoanh nợ, giãn nợ hoặc xoá nợ theo quy định. 

XI – An ninh - Trật tự
1.    Để thực hiện tốt Chỉ thị số 20/TTg của Thủ tướng Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2 trong đó có nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại: trả lương qua tài khoản đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đề nghị Bộ Công an nghiên cứu phối hợp thực hiện việc mở tài khoản để trả lương trong cán bộ, công chức lực lượng vũ trang.

XII- Toà án nhân dân tối cao
1.    Hiện nay trại giam Công an tỉnh Thái Nguyên đang quản lý 14 bị án tử hình (5 án đang gửi tại Trại T16 Bộ công an, 9 bị án đang giam giữ tại trại giam) trong đó có 8 bị án đã có hiệu lực chỉ chờ Quyết định ân xá hoặc không ân xá của Chủ tịch nước. Phần lớn số bị án đã giam tại buồng biệt giam từ 4 đến 22 tháng, số này do áp lực tâm lý nên thường xuyên chống đối, không chấp hành quy định của buồng giam. Để đảm bảo cho công tác quản lý và bảo vệ của các trại giam, đề nghị Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Văn phòng Chủ tịch nước sớm trình Chủ tịch nước đơn xin ân xá đối với án tử hình, tránh tình trạng lưu giam quá lâu và xem xét quy định thời gian giam giữ đối với án tử hình.

Đọc thêm