Thiết giáp chở quân hạng nặng (kỳ 1)
Nakpadon
Nakpadon là thiết kế xe thiết giáp chở quân hạng nặng chuyển đổi từ khung thân xe tăng chiến đấu chủ lực Centurion.
Centurion là mẫu thiết kế xe tăng thành công của nước Anh ra đời cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Centurion bắt đầu trang bị cho lực lượng quốc phòng Israel từ năm 1967 và phục vụ tới tận đầu những năm 1990. Israel sở hữu một số lượng lớn loại xe này, thay vì cho nghỉ hưu họ đã chuyển đổi, cải tiến thành loại xe thiết giáp chở quân hạng nặng Nakpadon.
Nakpadon được dành cho các hoạt động chống khủng bố, nó tham gia tích cực trong cuộc xung đột Israel – Lebanon năm 2006.
|
Thiết giáp chở quân hạng nặng Nakpadon. |
Nakpadon trang bị giáp hỗn hợp giữa giáp bị động và giáp phản ứng nổ đảm bảo tốt sự sống sót trên chiến trường. Giáp Nakpadon có thể chống chịu nhiều phát đạn RPG-7V hay đạn xuyên 20mm. Sàn xe cũng được gia cố để bảo vệ tốt hơn trước mìn chống tăng.
Xe trang bị 3 hoặc 4 súng máy M240 cỡ 7,62mm và pháo cối cỡ 60mm. Một số chiếc còn lắp súng máy phòng không 12,7mm, nhưng số này ít khi thấy. Một điểm kém của Nakpadon so với những xe thiết giáp hạng nặng khác là súng máy đều gắn bên ngoài, không có thiết bị điều khiển từ trong xe nên xạ thủ buộc phải ra ngoài thao tác bắn mà không có nhiều sự che chắn. Vì vậy, họ dễ trở thành “mồi ngon” cho các tay súng bẳn tỉa.
Tất nhiên, Nakpadon cũng có ưu điểm nổi bật là trong xe lắp thiết bị tác chiến điện tử cho phép chặn tín hiệu vô tuyến mà quân khủng bố hay dùng để kích nổ các quả bom bên đường.
Xe có trọng lượng khoảng 47 tới 55 tấn. Kíp lái điều khiển gồm 2 người (trưởng xe và lái xe) xe cung cấp chỗ cho 10 lính bộ binh.
Nakpadon dùng động cơ diesel AVDS 1790-6A 900 mã lực.
Namer
Xe thiết giáp chở quân Namer sử dụng khung thân xe tăng chiến đấu chủ lực hiện đại Merkava Mk.4.
Merkava Mk.4 được giới quân sự đánh giá là một trong những xe tăng có giáp phòng vệ tốt nhất thế giới. “Điểm ưu việt” này cũng có mặt trên Namer và biến nó thành chiếc thiết giáp chở quân có bộ giáp chắc chắn. Namer sử dụng kiểu mô đun giáp (dễ dàng gỡ bỏ thay thế khi bị phá hủy), hệ thống phòng vệ chủ động Trophy.
|
Thiết giáp chở quân Namer. |
Namer có trọng lượng khoảng 50 tấn, dài 7,8m, rộng 3,8m, cao 2m. Xe được điều khiển bởi tổ lái 2 người cùng khoang chở 10 binh lính (hoặc chở được 2 cáng cứu thương). Binh lính trên xe ra vào bằng cửa ở đuôi xe trong khi tổ lái được bố trí hai cửa nóc.
Namer trang bị hệ thống vũ khí điều khiển từ xa lắp súng máy phòng không 12,7mm hoặc súng phóng lựu tự động 40mm. Trên nóc xe còn có súng máy cỡ 7,62mm thao tác bắn bằng tay.
Lô sản xuất đầu tiên xe thiết giáp Namer trang bị động cơ diesel Continental AVDS-1790-9AR 1.200 mã lực, trong tương lai Israel sẽ thay thế bằng thế hệ động cơ Continental hoặc MTU mới hơn. Namer đạt tốc độ tối đa khoảng 60km/h, tầm hoạt động 500km.
|
Luôn ưu tiên vấn đề bảo đảm an toàn cho binh lính lên hàng đầu, cửa ra chính của Namer đặt ở đuôi xe. |
Israel phát triển một số biến thể của Namer như: xe chiến đấu bộ binh (trang bị pháo tự động 30mm và tên lửa chống tăng có điều khiển), xe thiết giáp chỉ huy, xe cứu thương, xe thiết giáp sửa chữa, xe hỗ trợ kỹ thuật.
Những chiếc Namer đầu tiên đi vào phục vụ trong quân đội Israel năm 2008. Israel có kế hoạch sản xuất vài trăm chiếc Namer.
Israel và Nga không phải là những nước duy nhất chế tạo xe thiết giáp chở quân hạng nặng, cũng có một số quốc gia phát triển loại này như Ấn Độ (Tarmour dựa trên T-55), Ukraine (BMPV-64 dựa trên T-64), Jordan (Temsah dựa trên Centurion).
|
Thiết giáp chở quân BMPV-64 do Ukraine cải tiến từ xe tăng chiến đấu chủ lực T-64. |
Dù do bất kỳ nền công nghiệp quốc phòng nào chế tạo thì tất cả đều có điểm chung như:
-Dựa trên khung thân xe tăng chiến đấu chủ lực.
-Cải tiến giáp và thường kết hợp với loại giáp phản ứng nổ.
-Sử dụng hệ thống vũ khí tự động hoặc thao tác bằng tay, các hệ thống này lắp súng máy cỡ 7,62-12,7mm, pháo cỡ 20-30mm, súng phóng lựu tự động và tên lửa chống tăng.
-Kết cấu lại bên trong khoang lái để tạo thêm không gian.