Chặng đường 80 năm xây dựng và phát triển
Tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp đánh giá: Thành tựu 80 năm qua của ngành thủy lợi không thể tách rời vai trò then chốt của khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ đã và đang là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành. Từ những nghiên cứu cơ bản về thủy văn, địa chất công trình, vật liệu xây dựng... đến việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong khảo sát, thiết kế, thi công và quản lý vận hành công trình thủy lợi, khoa học công nghệ đã góp phần quan trọng tạo nên những bước tiến vượt bậc cho ngành.
|
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp phát biểu tại hội nghị. (Ảnh: Linh Linh) |
Hiện nay, biến đổi khí hậu, khan hiếm nguồn nước, ô nhiễm môi trường và nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng là những vấn đề cấp bách mà ngành thủy lợi cần phải đối mặt và giải quyết. Những ý tưởng sáng tạo, những công nghệ tiên tiến sẽ giải quyết các vấn đề cấp bách và thúc đẩy sự phát triển bền vững thủy lợi trong tương lai.
"Ngành thủy lợi cần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo và thu hút nhân tài. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tiếp cận tri thức và công nghệ tiên tiến, cũng như tăng cường liên kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp để ứng dụng nhanh kết quả nghiên cứu vào thực tiễn", Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp nhấn mạnh.
Trải qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, ngành thủy lợi đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, manh mún, hàng năm phải nhập khẩu lương thực, đến nay Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Năm 2024, xuất khẩu nông lâm thủy sản Việt Nam có thể vượt 60 tỷ USD; trong đó, xuất khẩu gạo lần đầu tiên vượt 5 tỷ USD. Thành tựu này có sự đóng góp rất lớn của sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của hệ thống công trình thủy lợi trên cả nước.
Thành tựu và tầm quan trọng của thủy lợi
Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Thủy lợi cho biết: Bước sang giai đoạn mới, thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030 và tầm nhìn đến năm 2050…, đặc biệt là bảo đảm an ninh nguồn nước, thủy lợi phải đi trước một bước. Thủy lợi đang từng bước chuyển từ tư duy kế hoạch sang tư duy chiến lược; từ tư duy quản lý sang tư duy quản trị; từ tư duy điều hành sang tư duy phục vụ để tối đa hóa mục tiêu nhưng tối thiểu hóa chi phí.
|
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp và các đại biểu tham quan gian hàng giới thiệu công nghệ quan trắc, dự báo liên quan quản lý, vận hành, khai thác công trình. (Ảnh: Linh Linh) |
Theo báo cáo từ Cục Thủy lợi, Việt Nam đã xây dựng được hơn 900 hệ thống thủy lợi có quy mô phục vụ từ 200 ha trở lên; trong đó, có 122 hệ thống vừa và lớn phục vụ trên 2.000 ha, hơn 40.000 km đê sông và đê biển đã được xây dựng phục vụ và bảo vệ hoạt động dân sinh, sản xuất các ngành kinh tế. Cả nước có gần 8.000 đập và hồ chứa với tổng dung tích trữ khoảng 68 tỷ m3 nước, góp phần điều hòa và phân bổ nguồn nước hiệu quả.
Nhiều công trình thủy lợi lớn được xây dựng cho thấy sự trưởng thành về chất lượng chuyên môn của cán bộ thủy lợi, ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật. Điển hình, hồ Dầu Tiếng ở Đông Nam bộ là hồ thủy lợi nhân tạo lớn nhất Đông Nam Á; hồ Định Bình là hồ có đập ngăn sông đầu tiên của Việt Nam áp dụng công nghệ thi công bê tông đầm lăn; hệ thống đập hồ chứa nước Sông Cái là đập bê tông dài nhất Việt Nam…Hay các hồ Ayun Hạ, la Mơr, Krông Búk Hạ, Hồ Ea H’leo... ở Tây Nguyên đã trở thành những kho chứa nước khổng lồ phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt và phát triển kinh tế - xã hội. Gần đây, cống Cái Lớn - Cái Bé đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát mặn cho 384.000 ha đất canh tác tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Đến nay, 4,3 triệu ha đất canh tác được đảm bảo tưới phục vụ trồng trọt, 500 nghìn ha cây trồng cạn được áp dụng tưới tiên tiến, tiết kiệm nước; 8,4 triệu con gia súc, 480 triệu con gia cầm và gần 690.000 ha nuôi trồng thủy sản được cấp phục vụ chăn nuôi; cấp khoảng 6,5 tỷ m3 nước phục vụ sinh hoạt và công nghiệp; 88,5% người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Trải qua nhiều thế hệ, ngành thuỷ lợi đã xây dựng lên hệ thống đê điều với quy mô rất lớn, có nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ an toàn tính mạng tài sản của Nhà nước và nhân dân trước lũ bão, thiên tai. Hiện trên cả nước có tổng số 9.708,1 km đê (đê sông: 6.892,4 km; đê cửa sông: 1.161,7 km; đê biển: 1.307,5 km; 346 km đê bao), trong đó 2.776 km đê từ cấp III đến cấp đặc biệt có nhiệm vụ bảo vệ diện tích lớn, dân số đông và nhiều khu vực trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng của đất nước trước lũ, bão, tập trung chủ yếu ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngoài ra, vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn có khoảng 45.508km đê bao, bờ bao các loại.
Dễ dàng nhận thấy thủy lợi có một vị trí quan trọng đối với kinh tế, xã hội và an ninh quốc gia. Trong suốt chặng đường vừa qua, ngành thủy lợi đã có nhiều đóng góp to lớn vào việc bảo vệ, cải tạo môi trường, góp phần quan trọng vào xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.