Tìm hiểu pháp luật về bầu cử

Để phục vụ cho công tác tuyên truyền cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, Tiểu ban chỉ đạo công tác tuyên truyền cung cấp tài liệu để các cơ quan, đơn vị làm căn cứ biên soạn nội dung tuyên truyền phù hợp với địa phương, đơn vị mình. Do khuôn khổ có hạn, tài liệu chỉ đề cập tới những vấn đề cơ bản, nội dung chi tiết cần tham khảo trên các văn bản luật và hướng dẫn hiện hành.

Để phục vụ cho công tác tuyên truyền cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, Tiểu ban chỉ đạo công tác tuyên truyền cung cấp tài liệu để các cơ quan, đơn vị làm căn cứ biên soạn nội dung tuyên truyền phù hợp với địa phương, đơn vị mình. Do khuôn khổ có hạn, tài liệu chỉ đề cập tới những vấn đề cơ bản, nội dung chi tiết cần tham khảo trên các văn bản luật và hướng dẫn hiện hành.

Câu 1 - Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 có ý nghĩa như thế nào?

Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 sẽ được tiến hành vào ngày 22 tháng 5 năm 2011.

Cuộc bầu cử diễn ra trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang phấn khởi chào mừng thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và ra sức phấn đấu triển khai thực hiện đường lối, nhiệm vụ mà Cương lĩnh chính trị và Nghị quyết Đại hội XI đề ra.

Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 là đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, có ý nghĩa quan trọng của đất nước, của địa phương; nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là dịp động viên tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Việc lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trong Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ mới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong năm 2011.

Câu 2 - Vị trí, vai trò của Quốc hội và HĐND các cấp trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam?

Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền của mình tổ chức ra Nhà nước bằng cơ chế dân chủ, bầu ra những đại biểu xứng đáng nhất đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân trong các cơ quan quyền lực Nhà nước, đó là Quốc hội và HĐND các cấp.

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.

HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên; quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương; xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh; không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước; thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời gian qua Quốc hội và HĐND các cấp đã có nhiều đổi mới cả về tổ chức và hoạt động, đạt được những thành quả quan trọng, được nhân dân ghi nhận và đánh giá cao.

Câu 3 - Tại sao nói bầu cử là quyền và nghĩa vụ của công dân?

Ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các hình thức trực tiếp và gián tiếp.

Bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND là quyền và nghĩa vụ của công dân, bởi vì: Công dân tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND là thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân - những quyền chính trị cơ bản trong một Nhà nước dân chủ được Hiến pháp quy định.

Thông qua bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND, công dân vừa thực hiện quyền chính trị của công dân đồng thời thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong việc xây dựng, tổ chức bộ máy chính quyền Trung ương và địa phương bằng việc lựa chọn, giới thiệu và bầu người được nhân dân tín nhiệm vào Quốc hội và HĐND - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.

Câu 4 - Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp được tiến hành theo những nguyên tắc nào?

Theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đó cũng là những tư tưởng chỉ đạo trong việc tổ chức bầu cử, thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta.

Nguyên tắc bầu cử được thể hiện chặt chẽ, thống nhất và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tiến hành bầu cử, bảo đảm cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn. Nguyên tắc bầu cử yêu cầu phải quy định rõ quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm các quy định về bầu cử.

Câu 5 - Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu là gì?

Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu là nguyên tắc nhằm đảm bảo tính công khai, dân chủ và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, thành phần dân cư trong xã hội khi tiến hành bầu cử. Theo đó, mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND theo quy định của pháp luật.

Để thực hiện được nguyên tắc này và bảo đảm để cuộc bầu cử thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền bầu cử của mình, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu HĐND quy định:

- Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày bầu cử;

- Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập công khai, có sự tham gia của đại diện các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tập thể cử tri ở địa phương và đoàn thể nhân dân;

- Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối. Tuỳ tình hình địa phương, tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá mười giờ đêm.

Trước khi bỏ phiếu, tổ bầu cử phải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri.
- Mọi công dân cư trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi tên vào danh sách cử tri;
- Danh sách cử tri được niêm yết công khai chậm nhất là ba mươi lăm ngày trước ngày bầu cử;

- Hội đồng bầu cử lập và công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước theo danh sách chính thức do Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Uỷ ban Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh gửi đến chậm nhất là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử.

- Chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày bầu cử, Ban bầu cử phải niêm yết danh sách người ứng cử ở địa phương mình theo quyết định của Hội đồng bầu cử.

- Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc.

Trước khi mở hòm phiếu, tổ bầu cử phải thống kê, lập biên bản, niêm phong số phiếu không sử dụng đến và phải mời hai cử tri không phải là người ứng cử chứng kiến việc kiểm phiếu.

Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được uỷ nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí được chứng kiến việc kiểm phiếu.

Câu 6 - Thế nào là nguyên tắc bình đẳng trong bầu cử?

Bình đẳng là nguyên tắc nhằm bảo đảm để mọi công dân đều được tạo điều kiện tham gia bầu cử và có cơ hội ngang nhau khi ứng cử và vận động bầu cử.

Tính bình đẳng của nguyên tắc này được thể hiện trên các điểm sau đây:
- Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi cư trú.
- Mỗi người chỉ được ghi tên ứng cử, tự ứng cử ở một đơn vị bầu cử.
- Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội; bỏ một phiếu bầu cho mỗi cấp HĐND.

- Cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội và HĐND được hiệp thương, thoả thuận dân chủ để bảo đảm Quốc hội và HĐND có đủ đại diện của các vùng miền, các tầng lớp, thành phần xã hội và đại diện của đồng bào dân tộc thiểu số và đại diện phụ nữ.

Câu 7 - Thế nào là nguyên tắc bầu cử trực tiếp?

Trực tiếp trong bầu cử là nguyên tắc bảo đảm cho cử tri thể hiện ý chí của mình bằng cách trực tiếp viết phiếu bầu người đại diện cho mình tham gia Quốc hội và HĐND và tự tay bỏ phiếu vào hòm phiếu, không nhờ người bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng cách gửi thư.

Trường hợp cử tri không thể tự viết phiếu bầu có thể nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự tay bỏ phiếu vào hòm theo đúng quy định của luật. Trường hợp cử tri khuyết tật không tự bỏ phiếu bầu có thể nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm.

Trường hợp cử tri vì lý do ốm yếu, khuyết tật, không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử cử người mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Câu 8 - Thế nào là nguyên tắc bỏ phiếu kín?

Bỏ phiếu kín là nguyên tắc đặt ra nhằm yêu cầu các tổ chức phụ trách bầu cử đảm bảo để cử tri viết phiếu bầu mà không ai nhìn thấy và bỏ phiếu vào hòm phiếu mà không bị người khác can thiệp.

Theo nguyên tắc này, việc cử tri bầu hay không bầu cho một ứng cử viên nào đều phải được đảm bảo bí mật. Vì vậy, tổ bầu cử cần bố trí, sắp xếp để có sự ngăn cách cần thiết ở nơi cử tri viết phiếu; không ai được xem khi cử tri viết phiếu, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử.

Câu 9 - Quyền bầu cử là gì? Những ai có quyền bầu cử?

Quyền bầu cử là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử. Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu cử.

Tuy nhiên, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND cũng quy định người bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật, người phải chấp hành hình phạt tù, người bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự nếu đến trước thời điểm bỏ phiếu 24 giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả tự do hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì có quyền được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri. Ngược lại, người có tên trong danh sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị toà án tước quyền bầu cử, phải chấp hành hình phạt tù, bị bắt giam hoặc mất năng lực hành vi dân sự, thì UBND xã, phường, thị trấn xoá tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri.

Câu 10 - Quyền ứng cử là gì? Những ai có quyền ứng cử?

Quyền ứng cử là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử. Để được bầu làm đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, người ứng cử còn phải bảo đảm những tiêu chuẩn theo quy định. Cử tri căn cứ vào các tiêu chuẩn này để lựa chọn bầu các đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND.

Câu 11- Tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND?

Đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND đều có 5 tiêu chuẩn. Cụ thể:

* 5 tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội:

1. Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;

2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật;

3. Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ ĐBQH, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;

4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;

5. Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.

* 5 tiêu chuẩn của đại biểu HĐND:

1. Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng, phát triển địa phương;

2. Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật, tích cực đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;

3. Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu HĐND, có khả năng tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật; am hiểu tình hình kinh tế - xã hội để tham gia quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương;

4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;

5. Có điều kiện tham gia các hoạt động của HĐND.

Câu 12 - Thế nào là người được giới thiệu ứng cử và thế nào là người tự ứng cử?

Người được giới thiệu ứng cử là người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, các cơ quan Nhà nước ở Trung ương hoặc địa phương giới thiệu để được xem xét đưa vào danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND.

Người tự ứng cử là người căn cứ vào quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu HĐND, xét thấy mình có đủ tiêu chuẩn, trình độ, năng lực thì nộp hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND tại Uỷ ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi mình ra ứng cử.

Câu 13 - Việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được thực hiện như thế nào?

+ Ở tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội thì Ban lãnh đạo của tổ chức đó dự kiến người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của hội nghị cử tri, Ban lãnh đạo tổ chức hội nghị Ban Thường vụ mở rộng để thảo luận, giới thiệu người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.

+ Ở cơ quan Nhà nước thì Ban lãnh đạo cơ quan phối hợp với Ban Chấp hành công đoàn dự kiến người của cơ quan mình ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, thủ trưởng cơ quan tổ chức hội nghị gồm Ban lãnh đạo cơ quan, Ban Chấp hành công đoàn, đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc để thảo luận, giới thiệu người của cơ quan mình ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.

+ Ở đơn vị vũ trang nhân dân thì lãnh đạo, chỉ huy đơn vị dự kiến người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, đại diện Ban Chấp hành công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ huy cấp dưới trực tiếp để thảo luận, giới thiệu người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.

Câu 14 - Thế nào là bầu cử dân chủ đúng pháp luật?

Một cuộc bầu cử được coi là dân chủ và đúng pháp luật thì phải bảo đảm các yếu tố sau đây:

- Việc bỏ phiếu phải tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín;

- Bảo đảm các quyền bầu cử, quyền ứng cử; quyền vận động bầu cử. Quy định cụ thể những trường hợp bị tước quyền bầu cử, ứng cử; những trường hợp không được thực hiện quyền bầu cử, ứng cử và những trường hợp không tham gia bầu cử;

- Bảo đảm quyền của cử tri nơi người ứng cử công tác, làm việc, cư trú được nhận xét, bày tỏ ý kiến của mình về sự tín nhiệm đối với người ứng cử;

- Quy định rõ trình tự, thủ tục, quy trình các bước giới thiệu người ứng cử, hiệp thương giới thiệu người ứng cử, bầu bổ sung, bầu cử lại, bầu cử thêm để đảm bảo lựa chọn được những người xứng đáng ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND;

- Quy định rõ tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác bầu cử;

- Việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về bầu cử phải được thực hiện nghiêm túc, nhanh chóng; các vi phạm về bầu cử phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.

Câu 15 - MTTQ Việt Nam có vai trò như thế nào trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND?

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ Trung ương đến địa phương đóng vai trò hết sức quan trọng trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, vai trò này được thể hiện qua các nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể sau:

- Tổ chức các hội nghị hiệp thương để thoả thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội; lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội; lập danh sách sơ bộ và danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội; lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm của cử tri nơi cư trú và nơi công tác (nếu có) về những người ứng cử đại biểu Quốc hội;

- Tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội;

- Tham gia ý kiến với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong việc dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội được bầu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa phương.

- Tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử ở các cấp như Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức công tác bầu cử;

- Tổ chức để những người ứng cử gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri và vận động bầu cử;

* Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu HĐND;

- Phối hợp với Thường trực HĐND, UBND cùng cấp trong việc thành lập Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử;

- Chủ trì tổ chức Hội nghị hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ra ứng cử đại biểu HĐND; lập danh sách sơ bộ và danh sách chính thức những người ứng cử;

- Phối hợp với Thường trực HĐND, UBND cùng cấp triệu tập và chủ trì Hội nghị cử tri ở xã, phường, thị trấn để lấy ý kiến nhận xét về những người ứng cử đại biểu HĐND;

- Tổ chức để người có tên trong danh sách những người ứng cử gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri để tiến hành vận động bầu cử thông qua việc báo cáo với cử tri dự kiến việc thực hiện trách nhiệm của người đại biểu nếu trúng cử.

Câu 16 - Hội nghị hiệp thương là gì? Ai triệu tập và chủ trì?

Hội nghị hiệp thương là hội nghị giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức thành viên được tiến hành ở Trung ương và địa phương để thoả thuận cơ cấu, thành phần và số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu làm đại biểu Quốc hội, cũng như việc lập danh sách sơ bộ và danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội.

Hội nghị hiệp thương ở Trung ương do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triệu tập và chủ trì;

Hội nghị hiệp thương ở địa phương do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triệu tập và chủ trì.

Để đảm bảo dân chủ và lựa chọn được những người tiêu biểu đại diện cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị, hội nghị hiệp thương sẽ được tiến hành ba lần: Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất thoả thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu Quốc hội được bầu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân; Hội nghị hiệp thương lần thứ hai lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND; Hội nghị hiệp thương lần thứ ba lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND.

Câu 17- Một người có thể đồng thời là đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Quốc hội không?

Quốc hội và HĐND đều là cơ quan dân cử. Đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.

Theo quy định, một người chỉ được bầu làm đại biểu HĐND không quá hai cấp. Nếu người đang là đại biểu Quốc hội thì chỉ được bầu làm đại biểu HĐND ở một cấp.

Câu 18 - Thường trực HĐND các cấp có vai trò như thế nào trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND?

Thường trực HĐND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện công tác bầu cử theo quy định của pháp luật. Vai trò của Thường trực HĐND các cấp được thể hiện qua các nhiệm vụ, quyền hạn sau:

- Sau khi thống nhất với Thường trực HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Ban Thường trực Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, UBND cấp tỉnh ra quyết định thành lập Uỷ ban Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh;

- Sau khi thống nhất với Thường trực HĐND và Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cùng cấp; UBND xã, phường, thị trấn quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một tổ bầu cử để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp.

- Thường trực HĐND dự kiến về cơ cấu, thành phần, số lượng người được bầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị.

- Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần thứ nhất, Thường trực HĐND điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử đại biểu HĐND cấp mình.

- Thường trực HĐND được mời dự các hội nghị hiệp thương do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức thoả thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND để lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND; và lập danh sách sơ bộ, danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND.

- Trong việc bầu cử bổ sung, sau khi thống nhất với Thường trực HĐND và Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cùng cấp, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập ở đơn vị bầu cử Ban bầu cử bổ sung.

Câu 19 - UBND các cấp có vai trò như thế nào trong cuộc bầu cử Quốc hội và HĐND?

Vai trò của UBND các cấp trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND thể hiện ở những điểm sau:

UBND các cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản của Chính phủ, của các cơ quan cấp trên về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND.

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

- Thành lập Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND cấp tỉnh để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND ở cấp tỉnh;

- Thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử.

- Được mời dự các hội nghị hiệp thương do Uỷ ban MTTQ Việt Nam cùng cấp tổ chức để thoả thuận cơ cấu, thành phần và số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND để lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND; và lập danh sách sơ bộ, danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND.

UBND thành phố thuộc tỉnh sau khi thống nhất với Thường trực HĐND thành phố và Ban thường trực Uỷ ban MTTQ thành phố quyết định thành lập Uỷ ban bầu cử đại biểu HĐND thành phố.

UBND xã, phường, thị trấn:

- Quyết định việc chia khu vực bỏ phiếu và được UBND cấp trên trực tiếp phê duyệt;

- Lập danh sách cử tri theo khu vực bỏ phiếu; cấp giấy chứng nhận khi cử tri đi nơi khác không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri;

- Bổ sung vào danh sách cử tri theo quy định của pháp luật;

- Cùng với Ban thường trực Uỷ ban MTTQ cùng cấp triệu tập và chủ trì hội nghị cử tri ở xã, phường, thị trấn theo đơn vị thôn xóm, tổ dân phố, buôn, bản, ấp nơi cư trú thường xuyên của người ứng cử để lấy ý kiến và tín nhiệm của cử tri đối với người ứng cử;

- Phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị xác minh và trả lời bằng văn bản các vụ việc mà cử tri nêu lên đối với người ứng cử, người tự ứng cử.

- Được tổ bầu cử gửi biên bản kết quả kiểm phiếu.

Câu 20 - Cử tri là ai? Cách tính tuổi để thực hiện quyền bầu cử?

Cử tri là người được quyền bầu cử. Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên và có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật đều có quyền bầu cử.

Cách tính tuổi để thực hiện quyền bầu cử, ứng cử theo quy định tại Điều 2 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và năm 2010 (sau đây gọi chung là Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội) và Điều 2 của Luật Bầu cử đại biểu HĐND năm 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2010 (sau đây gọi chung là Luật Bầu cử đại biểu HĐND) được thực hiện như sau:

Tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân được tính từ ngày, tháng, năm sinh ghi trong Giấy khai sinh đến ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu HĐND (sau đây gọi là ngày bầu cử) đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ấn định (ngày 22-5-2011). Trường hợp không có Giấy khai sinh thì căn cứ vào Sổ hộ khẩu hoặc Giấy chứng minh nhân dân để tính tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử.

Mỗi tuổi tròn được tính từ ngày, tháng, năm sinh dương lịch của năm trước đến ngày, tháng, năm sinh dương lịch của năm sau.

Trường hợp không xác định được ngày sinh thì lấy ngày 01 của tháng sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử. Trường hợp không xác định được ngày và tháng sinh thì lấy ngày 01 tháng 01 của năm sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử.

Câu 21 - Việc lập danh sách cử tri được tiến hành như thế nào?

Danh sách cử tri là cơ sở pháp lý để cử tri nhận thẻ cử tri, thực hiện quyền bầu cử của mình. Vì vậy, pháp luật quy định rất chặt chẽ về việc lập danh sách cử tri. Danh sách cử tri do UBND xã, phường, thị trấn lập theo khu vực bỏ phiếu.

Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, đủ mười tám tuổi trở lên và không thuộc các trường hợp không được ghi tên vào danh sách cử tri thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại xã, phường, thị trấn nơi đã đăng ký thường trú và thực hiện quyền bầu cử tại nơi đó;

Trong thời gian lập danh sách cử tri, những người có giấy chứng nhận chuyển đi của cơ quan có thẩm quyền ở nơi cư trú cũ thì được ghi tên vào danh sách cử tri tại nơi cư trú mới để tham gia bầu cử.

Cử tri là sinh viên, học sinh, học viên có sổ tạm trú ở các trường chuyên nghiệp, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và cử tri là quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi học tập, công tác hoặc nơi đóng quân để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp tỉnh và cấp huyện ở nơi tạm trú hoặc đóng quân.

Cử tri là người lao động tại các khu công nghiệp tập trung, các doanh nghiệp có đăng ký tạm trú, lưu trú thì được ghi tên vào danh sách cử tri để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp tỉnh và cấp huyện.

Kể từ ngày niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bỏ phiếu, cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ thuộc đơn vị vũ trang nhân dân đang đi công tác và những người di cư tự do, đi lao động, làm việc, đi thăm người thân, đi du lịch ở nơi nào thì xuất trình với UBND xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là UBND cấp xã) nơi mới đến Thẻ cử tri hoặc Giấy chứng nhận “Đi bỏ phiếu nơi khác” do UBND cấp xã nơi cư trú hoặc do chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân cấp để được ghi tên bổ sung vào danh sách cử tri, tham gia bỏ phiếu ở nơi đó và được tính vào tổng số cử tri ở nơi mới đến. Nếu họ chưa có Thẻ cử tri, Giấy chứng nhận “Đi bỏ phiếu nơi khác” thì UBND cấp xã nơi mới đến yêu cầu những người này liên hệ với UBND cấp xã hoặc chỉ huy đơn vị nơi lập danh sách cử tri trước ngày niêm yết danh sách cử tri để nhận Thẻ cử tri hoặc Giấy chứng nhận “Đi bỏ phiếu nơi khác” để được bầu cử ở nơi mới đến.

Công dân Việt Nam công tác, lao động, học tập, du lịch, thăm người thân hoặc định cư ở nước ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri đã được niêm  yết đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi bốn giờ, thì đến UBND cấp xã xuất trình Hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam để ghi tên vào danh sách cử tri và nhận Thẻ cử tri để được bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã (nếu xuất trình tại nơi đăng ký thường trú); được bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện (nếu xuất trình tại nơi đăng ký tạm trú).

Đối với những nơi không có đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn thì UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh lập danh sách cử tri và cấp giấy chứng nhận “Đi bỏ phiếu nơi khác”.

Những trường hợp không được ghi tên, xoá tên hoặc bổ sung tên vào danh sách cử tri được thực hiện theo quy định tại Điều 23 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Điều 25 của Luật Bầu cử đại biểu HĐND.

Câu 22 - Những người nào không được ghi tên vào danh sách cử tri?

Những người không được ghi tên vào danh sách cử tri là: Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật; người đang phải chấp hành hình phạt tù; người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự.

Câu 23 - Trường hợp nào được ghi bổ sung vào danh sách cử tri?

Những người mà cho đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi bốn giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả lại tự do hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri.

Câu 24 - Trường hợp nào bị xoá tên khỏi danh sách cử tri?

Người đã có tên trong danh sách cử tri nếu đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị Toà án tước quyền bầu cử, phải chấp hành hình phạt tù, bị bắt tạm giam, bị tuyên bố mất tích hoặc bị chết, bị mất năng lực hành vi dân sự thì Toà án hoặc cơ quan hữu quan phải thông báo cho UBND xã đã lập danh sách cử tri để xoá tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri.

Câu 25 - Việc niêm yết danh sách cử tri được tiến hành như thế nào?

Chậm nhất là ba mười lăm ngày trước ngày bầu cử, cơ quan lập danh sách cử tri niêm yết danh sách đó tại trụ sở UBND xã, phường, thị trấn và tại những nơi công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời thông báo rộng rãi danh sách cử tri và việc niêm yết để nhân dân kiểm tra.

Câu 26 - Cử tri đã được ghi tên vào danh sách cử tri thì có quyền bầu cử ở nơi khác không?

Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri ở một nơi mình thường trú hoặc tạm trú.

Từ khi niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào vì đi nơi khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã ghi tên vào danh sách cử tri thì có quyền xin giấy chứng nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi mới đến. Khi cấp giấy chứng nhận, Uỷ ban nhân dân phải ghi ngay vào danh sách bên cạnh tên cử tri “Đi bỏ phiếu nơi khác”.

Câu 27 - Thẻ cử tri sau khi công dân đã bỏ phiếu xong thì xử lý như thế nào?

Thẻ cử tri được cấp cho công dân có quyền bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND. Vì vậy sau khi cử tri bỏ phiếu xong thì tổ bầu cử đóng dấu của tổ bầu cử vào Thẻ cử tri và giao lại cho công dân giữ Thẻ cử tri đó.

Câu 28 - Việc vận động bầu cử được tiến hành bằng những hình thức nào?

Người có tên trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND có quyền vận động bầu cử thông qua việc gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri và các phương tiện thông tin đại chúng để báo cáo với cử tri dự kiến thực hiện trách nhiệm của người đại biểu nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức để những người ứng cử gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri và vận động bầu cử.

Việc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

Câu 29 - Việc vận động bầu cử trên các phương tiện thông tin đại chúng được quy định như thế nào?

Việc vận động bầu cử của người ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND trên các phương tiện thông tin đại chúng được quy định như sau:

Người ứng cử đại biểu Quốc hội tiếp xúc, trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và trên trang thông tin điện tử về bầu cử đại biểu Quốc hội của Hội đồng bầu cử để trình bày với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội.

Người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc, trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và trên trang thông tin điện tử về bầu cử của Uỷ ban bầu cử (nếu có) để trình bày với cử tri về dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân.

Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan quản lý trang thông tin điện tử thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc đăng tải nội dung vận động bầu cử;

Trên cơ sở chỉ đạo của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Sở Thông tin và Truyền thông cùng cấp tổ chức việc đăng tải nội dung phỏng vấn người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương, bảo đảm bình đẳng, đúng pháp luật, công bằng giữa những người ứng cử, tuân thủ các quy định về vận động bầu cử.

Câu 30 - Thể thức bỏ phiếu được tiến hành như thế nào?

Theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND thì thể thức bỏ phiếu được tiến hành như sau:

Về thời gian bỏ phiếu, luật quy định: việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối. Tuỳ tình hình địa phương, tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá mười giờ đêm. Trước khi bỏ phiếu, tổ bầu cử phải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri. Về cách thức bỏ phiếu, luật quy định: Mỗi cử tri chỉ có quyền bỏ một phiếu bầu. Cử tri phải tự mình đi bầu, không được nhờ người khác thay trừ những trường hợp được quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu HĐND (do già yếu, ốm đau, tàn tật). Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và bầu.

Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được đến xem, kể cả thành viên tổ bầu cử; nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác, khi cử tri bỏ phiếu xong, tổ bầu cử có trách nhiệm đóng dấu “đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri. Để đảm bảo tính dân chủ trong bầu cử Luật quy định không ai được vận động bầu cử tại phòng bỏ phiếu; khi đã hết giờ bỏ phiếu, nếu còn cử tri có mặt tại phòng bỏ phiếu mà chưa kịp bỏ phiếu thì chỉ khi số cử tri này bỏ phiếu xong, tổ bầu cử mới được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu.

Câu 31 - Việc kiểm phiếu được tiến hành theo thủ tục nào? Những ai có quyền kiểm phiếu? Những ai được chứng kiến việc kiểm phiếu?

Ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, tổ bầu cử phải tiến hành việc kiểm phiếu tại phòng bỏ phiếu. Việc kiểm phiếu được tiến hành theo những thủ tục sau:

- Trước khi mở hòm phiếu, tổ trưởng tổ bầu cử phải mời hai cử tri biết đọc, biết viết, không phải là người ứng cử có mặt tại phòng bỏ phiếu để chứng kiến việc kiểm phiếu. Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được uỷ nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí được chứng kiến việc kiểm phiếu. Sau đó, tổ bầu cử tiến hành việc kiểm phiếu bao gồm các nội dung sau đây:

- Thống kê, lập biên bản, niêm phong tất cả số phiếu bầu không sử dụng đến;
- Xác định tổng số phiếu bầu đã phát ra;
- Xác định tổng số cử tri tham gia bỏ phiếu;
- Nghiêm cấm việc bỏ phiếu sau khi đã mở hòm phiếu;
- Kiểm tra hòm phiếu và tiến hành mở hòm phiếu (cả hòm phiếu phụ nếu có);
- Xác định tổng số phiếu được lấy ra từ hòm phiếu;
- So sánh tổng số phiếu được lấy ra từ hòm phiếu với số phiếu đã phát ra và với tổng số cử tri tham gia bỏ phiếu;
- Xác định số phiếu hợp lệ;
- Xác định số phiếu không hợp lệ;
- Đếm số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
- Giải quyết những khiếu nại, tố cáo về bầu cử hoặc chuyển lên Ban bầu cử giải quyết;
- Làm biên bản kết quả kiểm phiếu;
- Làm báo cáo về kết quả kiểm phiếu;
- Chuyển biên bản và báo cáo kết quả kiểm phiếu cho Ban bầu cử.

Câu 32 - Những phiếu nào là phiếu hợp lệ và không hợp lệ?

Những phiếu sau đây là phiếu hợp lệ:
- Phiếu bầu theo mẫu quy định do tổ bầu cử phát, có dấu của tổ bầu cử;
- Phiếu bầu đủ hoặc ít hơn số đại biểu Quốc hội và HĐND mà đơn vị bầu cử được bầu;
- Phiếu bầu gạch tên các ứng cử viên không được tín nhiệm bằng cách gạch chép, gạch xiên, gạch dọc hoặc gạch ngang, nhưng phải gạch hết họ và tên.
Những phiếu sau đây là phiếu không hợp lệ:
- Phiếu không theo mẫu quy định do tổ bầu cử phát;
- Phiếu không có dấu của tổ bầu cử;
- Phiếu để số người được bầu quá số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu;
- Phiếu gạch, xóa hết tên những người ứng cử;
- Phiếu ghi tên người ngoài danh sách những người ứng cử;
- Phiếu có viết thêm;
- Phiếu gạch vào khoảng cách giữa họ và tên hai ứng cử viên;
- Phiếu khoanh tròn họ và tên ứng cử viên.

Câu 33 - Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử?

Đối với các khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội: Mọi khiếu nại về kết quả bầu cử phải được gửi đến Hội đồng bầu cử chậm nhất là mười ngày kể từ ngày Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử. Hội đồng bầu cử có trách nhiệm xem xét, giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng bầu cử là quyết định cuối cùng.

- Đối với các khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu HĐND do Uỷ ban bầu cử giải quyết.

Câu 34 - Vi phạm pháp luật về bầu cử là gì?

Vi phạm pháp luật về bầu cử là những hành vi làm trái các quy định của pháp luật về bầu cử, bao gồm những hành vi sau đây:

- Dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội và HĐND của công dân;

- Người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử;

- Cản trở hoặc trả thù người khiếu nại, tố cáo về bầu cử.

Các hành vi vi phạm được liệt kê trên đây, tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Bộ luật Hình sự đã quy định cụ thể về tội phạm và hình phạt đối với các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân.

Câu 35 - Cơ quan nào có trách nhiệm xử lý các vi phạm pháp luật về bầu cử?

Các tổ chức phụ trách bầu cử có thẩm quyền xử lý các vi phạm hành chính về bầu cử:

- Thẩm quyền xử lý kỷ luật thuộc trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý trực tiếp người có hành vi vi phạm;

- Các cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm hành chính về bầu cử (Chính phủ, bộ, ngành, UBND các cấp) xử lý các vi phạm về bầu cử ở mức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;

- Các cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật hình sự về bầu cử (cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án) là những cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật về bầu cử được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm;

Đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về bầu cử thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà các cơ quan nói trên có trách nhiệm căn cứ vào các văn bản pháp luật liên quan xử lý theo thẩm quyền của mình.

Câu 36 - Thời hạn tạm ngưng việc xem xét khiếu nại, tố cáo đối với người ứng cử được quy định như thế nào?

Trong thời hạn mười ngày trước ngày bầu cử, Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh, Ban bầu cử ngưng việc tiếp nhận, xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị mới về người ứng cử và việc lập danh sách những người ứng cử.

- Trong trường hợp những khiếu nại, tố cáo đã rõ ràng, có đủ cơ sở kết luận người ứng cử không đủ tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và HĐND thì Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử các cấp quyết định xoá tên người đó trong danh sách những người ứng cử trước ngày bầu cử và thông báo cho cử tri biết.

- Không xem xét, giải quyết đối với những đơn khiếu nại, tố cáo nặc danh.

- Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử chuyển toàn bộ hồ sơ về khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết và những khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết nhưng đương sự vẫn không đồng ý đến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thường trực HĐND cùng cấp khoá mới để giải quyết theo thẩm quyền.

Câu 37 - Các bước triển khai cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016?

Các bước triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 gồm:

- Triển khai, quán triệt các văn bản về công tác bầu cử.
- Tổng kết nhiệm kỳ hoạt động của HĐND và UBND các cấp.
- Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử.
- Lập và niêm yết danh sách cử tri.
- Quyết định số lượng và đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.

- Ứng cử, hiệp thương, lựa chọn giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND và vận động bầu cử.

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Chuẩn bị bầu cử, tổ chức ngày bầu cử và công bố kết quả bầu cử.

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ LUẬT BẦU CỬ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Ngày 21-1-2011, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1018 NQ/UBTVQH12 công bố ngày bầu cử và thành lập hội đồng bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016. Theo đó, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 sẽ được diễn ra vào cùng một ngày Chủ nhật, 22 tháng 5 năm 2011. Để phục vụ cho sự kiện quan trọng này, kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu HĐND số 63/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011. Luật tập trung sửa đổi, bổ sung những vấn đề thiết yếu nhất về công tác tổ chức bầu cử khi tiến hành bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp trong cùng một ngày, bảo đảm sự thành công của cuộc bầu cử. Sau đây là tổng hợp về những điểm mới cơ bản nhất:

Về khu vực bỏ phiếu và số lượng cử tri trong mỗi khu vực bỏ phiếu

Luật sửa đổi, bổ sung quy định về số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu và quy định khu vực bỏ phiếu bầu cử ĐBQH đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu HĐND các cấp. Số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu được sửa đổi thống nhất từ ba trăm đến bốn nghìn cử tri. Với số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu được quy định với biên độ dao động từ ba trăm đến bốn nghìn cử tri sẽ vẫn bảo đảm thuận lợi cho việc bỏ phiếu của cử tri cũng như việc thành lập các khu vực bỏ phiếu; đồng thời cũng không gây quá tải về công việc đối với các tổ bầu cử trong điều kiện đã tăng số lượng thành viên tại mỗi tổ bầu cử.

Đối với những địa bàn và đơn vị có đặc thù riêng thì sẽ tuỳ thuộc vào số lượng cử tri và điều kiện cụ thể mà các cơ quan có thẩm quyền sẽ thành lập khu vực bỏ phiếu riêng hoặc phối hợp với các nơi khác thành lập khu vực bỏ phiếu chung nhằm bảo đảm thuận lợi nhất cho cử tri đi bầu cử.

Đối với những nơi không có đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn thì việc chia khu vực bỏ phiếu do UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định.

Về các tổ chức phụ trách bầu cử

Về Hội đồng bầu cử: Hội đồng bầu cử được gọi chung là Hội đồng bầu cử Trung ương, vì chỉ có duy nhất một Hội đồng bầu cử nên không phải đổi tên.

Về các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương: Trong điều kiện bầu cử chung và thống nhất về tổ chức của một số tổ chức phụ trách bầu cử, Luật sửa đổi, bổ sung đã giao cho UBND cơ quan chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử địa phương để đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc về cơ quan chủ trì thành lập tổ chức phụ trách bầu cử (vì UBND có đầy đủ ở cả ba cấp; trong khi đó, ở các địa phương đang thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường sẽ không có Thường trực HĐND).

Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh: Luật sửa đổi, bổ sung đã thành lập Uỷ ban Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh để thay thế và thực hiện chung nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh; các Hội đồng bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện, cấp xã cũng được đổi tên tương ứng thành Ban bầu cử.

Tổ bầu cử: Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định tổ bầu cử đồng thời thực hiện công tác bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã tại cùng một khu vực bỏ phiếu. Tổ bầu cử sẽ được tăng thêm số lượng thành viên. Sửa đổi thống nhất quy định về cơ quan chủ trì thành lập, thành phần và số lượng thành viên của tổ bầu cử (từ 11 đến 21 người).

Về thời gian bầu cử: Trong điều kiện bầu cử chung của cả ĐBQH và đại biểu HĐND thì quy định tại 2 Luật Bầu cử về kết thúc sớm cuộc bầu cử không còn phù hợp. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều bỏ quy định về kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn ở những khu vực bỏ phiếu đã có 100% cử tri đi bầu tại Điều 48 của Luật Bầu cử đại biểu HĐND và giữ nguyên quy định tại Điều 57 của Luật Bầu cử ĐBQH hiện hành.

Về trường hợp hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử ĐBQH và Luật Bầu cử đại biểu HĐND quy định trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử để đề nghị Uỷ ban Bầu cử trình Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định./.

Đọc thêm