Theo đó, có thể thấy tính chất nước ngoài có thể được thể hiện ở chủ thể: một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài; hoặc ở đối tượng: quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt tại nước ngoài, hoặc đối tượng của quan hệ đó (tài sản, sự vật, sự việc) ở nước ngoài.
Mặc dù đã có nhiều văn bản pháp luật quy định, song trong thực tiễn, việc thi hành án có yếu tố nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, đối với các việc thi hành án có yếu tố nước ngoài, chấp hành viên phải tiến hành xác minh nhiều lần về địa chỉ cũng như nơi đến của người phải thi hành án tại nước ngoài nhưng rất khó khăn để tìm kiếm thông tin, trong khi đây là cơ sở then chốt để thực hiện việc thông báo thi hành án hoặc ủy thác tư pháp… Việc cung cấp thông tin của người phải thi hành án của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh cũng còn nhiều hạn chế như thông tin người phải thi hành án đi đến nước nào và thời hạn cấp phép xuất cảnh là bao lâu quay về Việt Nam thì nhiều trường hợp cơ quan quản lý xuất nhập cảnh không nắm được.
Thời gian để tiến hành ủy thác tư pháp thường bị kéo dài. Ước tính sơ bộ về thời gian thực hiện thủ tục hồ sơ ủy thác tư pháp và quá trình ủy thác tư pháp theo quy định hiện hành đến khi có kết quả uỷ thác tư pháp là hơn 6 tháng (Điều 50, Nghị định 62/2015/NĐ-CP), chưa kể trong quá trình ủy thác vì lý nào đó, cơ quan nhận ủy thác không nhận được thì cơ quan ủy thác tư pháp phải thực hiện lại lần hai theo quy định và thời gian thực hiện lần hai là thêm 3 tháng.
Như vậy tổng thời gian thực hiện cả hai lần là khoảng 9 tháng và nếu sau việc ủy thác tư pháp lần thứ hai mà cơ quan thi hành án không nhận được thông báo kết quả ủy thác tư pháp thì cơ quan THADS căn cứ vào những tài liệu đã có để giải quyết theo quy định.
Chi phí thực hiện một vụ ủy thác tư pháp bao gồm các chi phí cần có như: chi phí dịch thuật văn bản, chi phí ủy thác theo quy định của Bộ Tài chính và chi phí phát sinh... Thực tế, có nhiều hồ sơ cần ủy thác tư pháp nhưng chi phí ủy thác tư pháp và các chi phí liên quan lại nhiều hơn nghĩa vụ phải thi hành án, điều này gây khó khăn trong việc thu hồi các chi phí liên quan đến ủy thác tư pháp.
Về việc xác định yếu tố nước ngoài trong THADS để thực hiện ủy thác thi hành án cũng còn nhiều quan điểm khác nhau. Theo quy định tại Điều 56 Luật THADS thì cơ quan THADS ủy thác cho cơ quan THADS cấp tỉnh nơi khác thi hành bản án, quyết định có yếu tố nước ngoài (không thực hiện ủy thác cho cơ quan THADS cấp huyện đối với những vụ việc này).
Tuy nhiên, thực tế có rất nhiều vụ việc khi xét xử có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là những vụ việc tranh chấp chia thừa kế, nhưng khi đưa ra thi hành án, các nghĩa vụ của từng người phải thi hành án là riêng rẽ, không liên quan đến các yếu tố nước ngoài.
Vì thế, khi tổ chức thi hành còn có những quan điểm khác nhau do đó cần hướng dẫn, quy định cụ thể như thế nào được gọi là “việc thi hành án có yếu tố nước ngoài” trong THADS mà không căn cứ vào yếu tố nước ngoài theo bản án, quyết định để phù hợp với giai đoạn thi hành án.