Trồng rau ở Nga- Một thấy bằng mấy trăm nghe

Người ta nói rằng, ở Nga có ba nghề khốn khổ và vất vả nhất đối với người Việt, đó là xây dựng, làm xưởng may đen và trồng rau.

Người ta nói rằng, ở Nga có ba nghề khốn khổ và vất vả nhất đối với người Việt, đó là xây dựng, làm xưởng may đen và trồng rau.

Đã từng có hàng loạt bài báo viết về những cảnh đời "nô lệ thế kỷ 21" đăng trên các báo có tira rất lớn ở Nga; đã từng có những đoạn phim truyền hình làm nhức nhối lòng người xem, nhưng dẫu sao đó là những cuộc kiểm tra, vây bủa của công an, một thoáng lướt qua cuộc sống của những người thuộc giai tầng dưới đáy của các phóng viên. Họ chỉ tập trung quan sát vào điều kiện ăn ở tồi tệ, sự bất hợp pháp, không có giấy tùy thân, chứ thực tình, họ không hề biết những người công nhân Việt phải chấp nhận, phải thích nghi như thế nào để tồn tại với hoàn cảnh, để mong có một ngày mai cho bản thân họ và đằng sau họ là một gia đình.

Tôi đặt hàng với anh Tuyến, một người thông thuộc địa hình và quen biết rộng rãi,  một chuyến thăm anh em trồng rau, nhưng mãi một tháng sau, anh Tuyến mới liên hệ được địa điểm. Chúng tôi muốn đến thăm họ như là một người thân từ Thủ đô về nơi anh em làm việc.

Để thật chu đáo và để có quà có tác dụng sử dụng đối với anh em, tôi ra chợ xin các chủ hàng cho mỗi người hai quần bò lỗi mốt, nhưng chắc chắn đối với những người dầm dãi nắng sương vẫn vô cùng tốt; mỗi người hai chiếc áo, cộng thêm một số áo len, khăn quàng tôi sẵn có cũng mang theo.

Tôi góp được hai kg chè Thái, Anh Tuyến mua thêm ít bánh kẹo và mấy cân hoa quả nữa, thế là khá tươm tất.

Trước lúc ra đi, tôi sực hiểu ra rằng, anh em công nhân trồng rau, cách biệt với mọi thông tin, nhu cầu sách vở cũng quan trọng không kém nhu cầu vật chất, tôi chọn ra được hơn hai chục quyển truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam mang theo dành cho họ đọc khi nghỉ ngơi, giải trí.

Do chân còn hơi bị đau, đi xa chưa được, tôi nhờ anh Hưng, nghiên cứu sinh Trường Giao thông lái xe hộ.

Đồng rau bát ngát

Từ Matxcơva đi theo tuyến Riazan chừng 110 km, rẽ theo hướng Kolomna, qua thành phố chừng 25 km nữa là đến một khu làng thưa vắng. Rời đường làng, xe chúng tôi băng qua đồng đi về phía sông Ôka  chạy giữa cánh đồng bát ngát hàng nghìn hecta đến tận những hàng cây lúp xúp nhô lên một chiếc tháp nước cũ kỹ thời Xô viết.

Dưới chân tháp nước là một ngôi nhà hai tầng hoang tàn, vắng vẻ; bên cạnh là một ngôi nhà gỗ lụp xụp, không một bóng người.

Anh Bùi văn Lưỡng

Phía góc lùm cây đã có một người chờ sẵn bên một chiếc ô tô phế liệu. Tuyến bảo, có người ra đón chúng ta.

Một người đàn ông khó đoán tuổi ngượng nghịu bước tới cửa xe.  Anh tự giới thiệu tên là Bùi Văn Lưỡng, người quản lý anh em trồng rau tại đây, và mấy lần xin lỗi là, các anh thông cảm, hoàn cảnh như thế này không tiếp các anh chu đáo được!

Chị em nhận quà

Anh dẫn chúng tôi lên phòng ở tầng 2. Anh em công nhân đang giờ nghỉ trưa. Anh Lưỡng đánh thức tất cả dậy. Cả nam và nữ có tất cả 14 người. Anh Lưỡng pha chè, mang hoa quả ra,  giới thiệu với mọi người là có " đại diện cộng đồng từ Matxcơva đến thăm và tặng quà". Tôi vội vàng đính chính rằng, tôi, anh Tuyến, anh Hưng đến đây hoàn toàn với tư cách cá nhân. Chứng tôi thật lòng đến thăm anh em và có chút quà của người thành phố!

Những người công nhân nữ, da tay nứt nẻ, mắt thâm quầng, đen xạm; còn anh em công nhân nam nhìn chung là gầy gò, quần áo nhầu nát và mệt mỏi.

Mọi người rất xúc động, vì họ không thể ngờ là có người lặn lội đến đây thăm họ như là những người đồng hương thân thuộc, chia sẻ với hoàn cảnh của họ, cảm thông với họ.

Giường chiếu của người trồng rau

Chỗ ở của họ ngay trên tầng hai. Đi làm về, sau khi ăn uống xong, họ chui vào màn ngủ dăm tiếng để chưa bình minh đã dậy đi làm, chăn màn, quần áo cũng chẳng còn hơi sức đâu mà thu dọn.

Nón lá giữa thảo nguyên Nga

Buổi trưa, anh em công nhân chỉ được nghỉ một giờ về ăn trưa, sau đó phải ra đồng lập tức. Mỗi ngày họ dậy từ 4 giờ sáng và làm việc đến 10 giờ đêm! Trừ hai tiếng nghỉ ăn cơm và vệ sinh, vị chi là làm việc suốt 16 tiếng mỗi ngày như một chiếc rôbôt!

Thu hoạch rau

Mùa này, công việc của họ là thu hoạch rau. Họ cắt rau thì là, rau mùi, bắp cải, hành... cho vào các bao tải, chờ xe tải đến mang về thành phố. trung bình mỗi ngày, một người phải cắt được từ 1 tấn 6 đến tấn bảy rau.

Giữa trời nắng tháng 6, những người công nhân Việt nhỏ thó đội những chiếc nón bọc băng dính để được bền; nhiều nam giới mang theo mũ cối từ Việt Nam sang đội mới chịu được nắng gió thảo nguyên. Cường độ, thời gian lao động của họ chỉ có thể so sánh với công nhân châu Phi đào Kim cương cuối thế kỷ XVIII. Mệt nhọc, buồn tẻ và đơn độc.

Về mùa đông giá buốt, khi tất cả thảo nguyên đóng băng, họ được đưa về làm việc trong một tầng ngầm của xưởng gần thành phố.

Công việc của họ vẫn như những chiếc máy, cho khoai tây, cà rốt vào bao, cân lên và khâu lại. Có những thời gian, họ ngồi suốt ngày chọn, bóc bắp cải, chia loại để muối hoặc để bán ra của hàng.

Anh Lưỡng cho hay, chủ của họ là người Nga rất đàng hoàng và sòng phẳng, hai ngày công nhân được thanh toán tiền một lần, căn cứ vào sản phẩm khoán.

Anh nói nhỏ với tôi, trừ đầu, trừ đuôi ra, mỗi ngày, một người có thể kiếm được 500 rúp!

500 rúp, vị chi là mười sáu đô la rưỡi, làm việc 16 giờ ròng rã, mỗi giờ chừng một đô la, chấp nhận sự tàn phá sức khỏe, chấp nhận sống ở nơi cách biệt thế giới văn minh, không báo chí, không đài đóm, không lễ  tết, không giao lưu, không người thăm, kẻ viếng.

Chưa một lần được đi ra phố

Người có tri thức cao nhất ở đây là anh Lưỡng. Với vốn kiến thức tiếng Nga có được từ thời làm công nhân xuất khẩu, anh vừa là đội trưởng, vừa là phiên dịch cho cả nhóm. Anh thật thà cho hay là, 11 năm nay, vẫn chưa có cơ hội để về thăm vợ con ở Thanh Hóa. Khi có giấy tờ thì không có tiền; khi có đủ tiền mua vé, thì không có hộ khẩu, visa. Toàn bộ số anh em ở đây, không một ai có giấy tờ. Được chủ có thế lực, quen biết nhiều, nên anh em không bị  công an "mesai"   (mesat-  quấy rầy).

Có lẽ ngoài anh Lưỡng là người duy nhất biết thành phố, đã từng được đến các cửa hàng, còn lại thì anh chị em từ các đồng quê Nam Hà, Hải Dương, Nghệ Tĩnh bỏ quang gánh, rũ bùn, lên sân bay Nội Bài, qua Đomođeđovo, rời sân bay là đến thẳng một mạch ra đồng rau mịt mù, xa lắc.

Thỉnh thoảng có người quen từ Kolomka xuống, anh Lưỡng lại nhờ mua hộ nước mắm, bánh kẹo, mì tôm và nộp card  điện thoại. Tiền chủ thanh toán cho, anh Lưỡng lên phố ra ngân hàng chuyển về một địa chỉ trong nước, các gia đình qua nhận đầy đủ. Nhưng bất tiện vô cùng.

Đếm tiền nhờ gửi về nước

Họ nhờ tôi giúp mang ít tiền của tất cả anh em lên Matxcơva chuyển về Việt Nam hộ. Về khoản này thì tôi mù tịt, tôi đành nhờ anh Tuyến. Mọi người rời đồng rau, tập trung quanh xe, lần giở trong người những đồng bạc buộc chặt, ướt đẫm mồ hôi, đếm trao cho anh Tuyến. (Một ngày sau, anh Tuyến ra chợ Liublino chuyển toàn bộ số tiền đó về quê cho họ)

Xong xuôi, anh chị em công nhân lại vội vã ra đồng. Nhìn những dáng người lom khom, cần lao trên thảo nguyên bạt ngàn của nước Nga mà cảm thương cho số phận những người con Việt xa xứ.

Anh Lưỡng tiễn chúng tôi đến tận trạm gác mới quay trở lại. Tôi thấy anh mắt đỏ hoe.

Tuyến bảo tôi, em đi nhiều, nhưng chưa thấy nơi nào họ thương nhau như ở đây. "Tuy họ khổ thật, nhưng anh chưa biết đấy thôi, những nơi khác còn khổ gấp nhiều lần. Hôm nào rảnh, em đưa anh đến".

Theo Mekongnet.ru

Đọc thêm