VCCI băn khoăn về Dự thảo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi)

(PLVN) - Góp ý về Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằng nhiều điều khoản quy định trong Dự thảo chưa hợp lý, chưa đảm bảo tính minh bạch, dễ gây tranh cãi giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế vì vậy cần cân nhắc kỹ lưỡng lợi - hại, tác động bởi sẽ gây quá sức chịu đựng của doanh nghiệp trong ngành.
Ảnh minh họa

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản góp ý về Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) của Bộ Tài chính (Dự thảo).

Làm rõ khái niệm “Giá giao dịch thông thường trên thị trường”

Theo VCCI, đối với quy định ấn định thuế khi giá bán không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường là chưa bảo đảm tính minh bạch và dễ gây tranh cãi giữa các doanh nghiệp và cơ quan thuế.

Cụ thể, Điều 6.1 của Dự thảo bổ sung quy định trao quyền cho cơ quan thuế thực hiện ấn định thuế khi giá bán của hàng hoá, dịch vụ không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường theo pháp luật về quản lý thuế. Quy định này được luật hoá từ Nghị định 100/2016/NĐ-CP và Thông tư 130/2016/TT-BTC.

Quy định này được suy đoán là để chống lại hành vi “chuyển giá” đối với thuế tiêu thụ đặc biệt, tức là doanh nghiệp cố tình kê khai giá tính thuế đối với hàng hoá, dịch vụ thấp hơn so với giá trị giao dịch thật nhằm giảm nghĩa vụ thuế.

“Tuy nhiên, theo phản ánh của các doanh nghiệp, quy định này chưa bảo đảm tính minh bạch do chưa làm rõ khái niệm “giá giao dịch thông thường trên thị trường” cũng như công thức để tính toán giá tính thuế ấn định. Do đó, quy định này thường gây ra tranh cãi giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế” - VCCI cho hay.

Để chống lại hành vi “chuyển giá”, VCCI cho rằng, hiện pháp luật về thuế có ba biện pháp khác nhau: Thứ nhất, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp: áp dụng Nghị định 132/2020/NĐ-CP về quản lý thuế đối với giao dịch liên kết, theo nguyên tắc doanh nghiệp chuẩn bị Hồ sơ xác định giá giao dịch liên kết nhằm chứng minh giá tính thuế phù hợp với giá của các giao dịch độc lập có cùng điều kiện;

Thứ hai, đối với thuế tài nguyên: giá tính thuế tài nguyên khoáng sản không thấp hơn giá tính thuế do UBND cấp tỉnh quy định; Thứ ba, đối với thuế tiêu thụ đặc biệt: cơ quan thuế ấn định thuế khi giá bán không theo giá trị giao dịch thông thường trên thị trường.

Trong đó, biện pháp lập Hồ sơ xác định giá giao dịch độc lập tại Nghị định 132/2020/NĐ-CP được coi là khoa học và tiến bộ nhất. “Đây là biện pháp được hướng dẫn rất chi tiết về các khái niệm và công thức tính toán. Tuy nhiên, việc chuẩn bị bộ hồ sơ xác định giá giao dịch độc lập mất nhiều thời gian và chi phí” - VCCI nhận định.

Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc sửa đổi quy định về xử lý trường hợp giá tính thuế không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường: Doanh nghiệp cứ tự kê khai, tự chịu trách nhiệm về giá tính thuế. Doanh nghiệp có quyền tự chuẩn bị Hồ sơ giao dịch độc lập để chứng minh cho giá tính thuế của mình là phù hợp với giá trên thị trường.

Nếu doanh nghiệp nộp Hồ sơ giao dịch độc lập thì cơ quan thuế xử lý hồ sơ theo các nguyên tắc và công thức tính toán được quy định tương tự như Nghị định 132.

Trường hợp doanh nghiệp không có Hồ sơ và cơ quan thuế xác định là giá tính thuế khác với giá giao dịch thông thường thì thực hiện ấn định thuế. Việc xác định giá tính thuế khác với giá giao dịch thông thường phải được thuyết minh rõ về phương pháp xác định và thông tin đầu vào. Hoặc giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết về phương pháp xác định giá giao dịch thông thường, công thức tính, khoảng sai lệch cho phép.

Bổ sung trường hợp khấu trừ và hoàn thuế đối với ô tô chuyên dùng

Đối với quy định khấu trừ thuế và hoàn thuế, Điều 9.2 của Dự thảo quy định: “Người nộp thuế sản xuất hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bằng nguyên liệu đã nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, nếu có chứng từ hợp pháp thì được khấu trừ số thuế đã nộp đối với nguyên liệu khi xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp ở khâu sản xuất.”. Như vậy, để được khấu trừ thuế TTĐB, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện hàng hoá đầu ra thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB; nguyên liệu đầu vào thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB.

Trên thực tế, phát sinh trường hợp các doanh nghiệp sản xuất ô tô chuyên dùng hiện đang không được khấu trừ thuế và hoàn thuế TTĐB đầu vào. Thực tiễn sản xuất ô tô chuyên dùng, các doanh nghiệp thường sẽ dựa trên một số dòng xe thương mại phổ thông.

Ví dụ, xe cứu thương được sản xuất trên nền xe chở người 9 hoặc 12 chỗ, xe chở tiền được sản xuất trên nền xe chở người 7 chỗ, các loại xe chở phạm nhân, xe tang lễ, xe chạy trong khu vui chơi, xe chở học sinh, xe chuyên dụng khác đều được sản xuất từ những dòng xe thương mại phổ thông. Quá trình sản xuất này có đầu vào là xe thương mại phổ thông, thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Đầu ra là xe chuyên dùng, không thuộc diện chịu thuế.

“Như vậy, căn cứ vào Điều 9.2 của Dự thảo thì các doanh nghiệp này chỉ đáp ứng điều kiện nguyên liệu đầu vào thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB mà không đáp ứng điều kiện hàng hoá đầu ra thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB. Do đó, các doanh nghiệp này không được khấu trừ thuế hay hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt” - VCCI nêu ý kiến đồng thời khẳng định: “Chính sách như vậy tác động rất tiêu cực đến sản xuất và sử dụng ô tô chuyên dùng tại Việt Nam”.

Theo đơn vị này, giá bán các loại phương tiện này trên thị trường bị đẩy lên cao do khoản thuế tiêu thụ đặc biệt đầu vào không được khấu trừ và hoàn.

VCCI lấy ví dụ: trường hợp xe cứu thương, khoản thuế không được khấu trừ và hoàn này khiến chi phí sản xuất xe cứu thương trong nước tăng khoảng 35% - 40%. Điều này gián tiếp làm tăng chi phí y tế, giảm khả năng tiếp cận dịch vụ của người bệnh. Do chi phí thuế sản xuất trong nước cao như vậy, trong khi hàng hoá tương tự sản xuất tại nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam không phải chịu thuế, nên các doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu.

Cũng theo VCCI, hiện nay Dự thảo mới chỉ quy định hoàn thuế đối với trường hợp sử dụng xăng khoáng để sản xuất xăng sinh học. Trong khi đó, mặt hàng ô tô chuyên dùng cũng sử dụng nguyên liệu đầu vào là mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt lại chưa có quy định về khấu trừ và hoàn thuế.

Với các lý do trên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung trường hợp khấu trừ và hoàn thuế đối với việc sử dụng xe ô tô thương mại để sản xuất xe ô tô chuyên dùng.

Đánh thuế 10% sẽ tác động tiêu cực đối với doanh nghiệp ngành đồ uống

Trong dự thảo này, nước giải khát có đường là mặt hàng mới được bổ sung vào diện chịu thuế với thuế suất dự kiến 10%. Lý do được đưa ra là nhằm chống lại tình trạng thừa cân, béo phì đang gia tăng tại Việt Nam hiện nay. Việc bổ sung đối tượng chịu thuế mới sẽ có tác động rất lớn và rất nghiêm trọng tới sự phát triển của doanh nghiệp ngành hàng này. VCCI cho rằng chính sách này cần được cân nhắc hết sức kỹ lưỡng trên một số phương diện như sau:

Thứ nhất, mục tiêu ngăn chặn tình trạng thừa cân béo phì là cần thiết và nhận được sự ủng hộ từ các doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt 10% đối với nước giải khát có đường sẽ giúp hạn chế hay giảm tỷ lệ béo phì như thế nào thì chưa được đánh giá đầy đủ.

Theo nghiên cứu của một số doanh nghiệp, các thực phẩm có chứa đường (gồm đồ uống giải khát, bánh kẹo, kem…) cung cấp trung bình 3,6% tổng năng lượng đưa vào cơ thể. Như vậy, việc đánh thuế 10% đối với mặt hàng nước giải khát có đường chỉ có thể làm giảm một lượng rất nhỏ, khoảng 0,1% - 0,2% năng lượng được nạp vào cơ thể.

Thứ hai, chính sách thuế này chưa bảo đảm công bằng khi chỉ tập trung vào các sản phẩm đồ uống đóng chai sẵn. Còn các loại đồ uống pha chế tại chỗ như cà phê, trà sữa, nước mía, trà chanh… sẽ khó có thể bị đánh thuế, do không thể xác định chính xác hàm lượng đường.

Thứ ba, chính sách này sẽ tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp ngành đồ uống của Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp thuần tuý nội địa. Các doanh nghiệp nước ngoài đã có kinh nghiệm và công nghệ trong việc chuyển đổi sang các sản phẩm đồ uống không đường nhưng vẫn có vị ngọt. Trong khi đó, các doanh nghiệp thuần tuý nội địa gặp khó khăn hơn rất nhiều khi chính sách đánh thuế được thực hiện.

Với các lý do trên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo đánh giá kỹ hơn về tác động, biện pháp thực hiện, cũng như lộ trình phù hợp của chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường.

Cần lộ trình tăng thuế đối với rượu bia và thuốc lá

Đối với mặt hàng rượu, bia, thuốc lá, theo VCCI các doanh nghiệp đồng tình với quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc sử dụng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt để bảo vệ sức khoẻ người dân, hạn chế tiêu dùng các mặt hàng có hại cho sức khoẻ như rượu bia, thuốc lá. Tuy nhiên, Dự thảo hiện đề xuất mức tăng thuế rất mạnh và tốc độ tăng thuế rất nhanh đối với các mặt hàng này.

“Việc tăng thuế quá nhanh và mạnh này sẽ khiến các doanh nghiệp không thể điều chỉnh công suất sản xuất phù hợp với sự sụt giảm sản lượng tiêu thụ do chính sách thuế. Điều này sẽ dẫn đến nhiều dự án đầu tư gặp thua lỗ, không thể thu hồi được vốn.” - VCCI bày tỏ.

Cũng theo VCCI, sự sụt giảm sản lượng quá nhanh sẽ tác động tiêu cực đến việc làm của người lao động, rất khó để chuyển đổi nghề nghiệp cho số lượng lao động dôi dư từ các nhà máy rượu bia, thuốc lá.

VCCI cho rằng, cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu đưa ra lộ trình tăng thuế đối với rượu bia và thuốc lá phù hợp hơn với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ưu tiên lựa chọn phương án 01 với tốc độ tăng thuế ổn định hơn.

VCCI đề nghị bỏ thuế TTĐB đối với xăng

Mặt hàng xăng hiện nay đang phải chịu cùng lúc hai loại thuế có cùng tính chất hạn chế tiêu dùng là thuế TTĐB và thuế bảo vệ môi trường. VCCI cho rằng, xăng không phải mặt hàng xa xỉ, nên việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xăng cũng là nhằm bảo vệ môi trường. Do đó, cơ quan này đề nghị Cơ quan soạn thảo nghiên cứu bỏ thuế TTĐB đối với xăng. Trong trường hợp cần thiết thì điều chỉnh thuế bảo vệ môi trường cho phù hợp với mục tiêu của loại thuế này.

Đọc thêm