Về thăm di tích thành Chiềng Lề của vị tướng quân Hoàng Công Chất

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Người anh hùng áo vải - Tướng quân Hoàng Công Chất được xem là biểu tượng, là niềm tin cho tinh thần đại đoàn kết các dân tộc, yêu nước, chống giặc ngoại xâm ở thế kỷ 18. Di tích thành Bản Phủ (thành Chiềng Lề) - đền Hoàng Công là di sản văn hóa quý báu, là niềm tự hào của Điện Biên nói riêng và cả nước nói chung. Nơi đây trở thành điểm đến thiêng liêng trong hành trình về nguồn của du khách khi ghé thăm Điện Biên.
Thành Bản Phủ - Đền thờ Hoàng Công Chất. (Ảnh: Mai Hoa)
Thành Bản Phủ - Đền thờ Hoàng Công Chất. (Ảnh: Mai Hoa)

Đánh đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng thành Chiềng Lề

Tương truyền, vào thế kỷ XVIII, có nhân vật Hoàng Công Chất xuất thân trong một nông dân nghèo tại Thái Bình, đã dựng cờ khởi nghĩa chống triều đình chúa Trịnh với mong muốn xóa bỏ bất công, cứu giúp nhân dân.

Dưới thời vua Lê Dụ Tông, miền Tây Bắc bị giặc Phẻ từ Thượng Lào tràn vào xâm lược, cướp bóc, giết hại dân lành, sau đó, lại bị giặc Giẳng từ Vân Nam (Trung Quốc) kéo đến tranh giành và dồn giặc Phẻ (Pọng) vào khu vực “động Mãnh Thiên” (tiếng Thái gọi là Mường Then, tiếng phổ thông là Mường Thanh, tức trung tâm Điện Biên Phủ). Trước tình thế đó, thủ lĩnh của các dân tộc Thái tại Mường Thanh là Lò Văn Ngải, Lò Văn Khanh đứng lên tập hợp, lãnh đạo dân Mường Thanh chống giặc, song lực còn yếu, nghĩa quân chịu nhiều tổn thất, phải rút lên vùng núi cao bảo toàn lực lượng. Khi gặp nghĩa quân của Hoàng Công Chất (đang trên đường chuyển căn cứ lên Mường Thanh), các thủ lĩnh người Thái đã cầu cứu và Hoàng Công Chất đã đồng ý liên kết với quân của thủ lĩnh người Thái đánh đuổi, tiêu diệt giặc Phẻ, giải phóng Mường Thanh, bảo vệ miền biên giới Tổ quốc.

Sau đó, Hoàng Công Chất cho tiến hành xây dựng thành Chiềng Lề (nay gọi là thành Bản Phủ) từ năm 1758 đến năm 1762 để làm căn cứ cho nghĩa quân tại vị trí trung tâm cánh đồng Mường Thanh. Sử sách còn ghi, thành Chiềng Lề rộng 80 mẫu, dựa lưng vào dòng sông Nậm Rốm, có đường thành đắp bằng đất trồng tre gai, bên ngoài có hào rộng từ 4-5m, sâu 10m, thành cao 5m, mặt thành rộng 4 đến 6m. Thành có 4 cửa: Tiền, hậu, tả, hữu. Ở mỗi cửa có đắp đồn cao, có vọng tiêu là nơi lính đóng. Giữa thành có phủ là nơi các thủ lĩnh nghĩa quân đóng.

Tôn tượng Anh hùng áo vải - Tướng quân Hoàng Công Chất. (Ảnh: Đình Châu)

Tôn tượng Anh hùng áo vải - Tướng quân Hoàng Công Chất. (Ảnh: Đình Châu)

Cùng với việc củng cố căn cứ Mường Thanh, tướng Hoàng Công Chất còn ra sức mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp miền Tây Bắc, xuống tới Bạch Hạc - Việt Trì ở lưu vực sông Thao, sang tới Thượng Lào, cùng với đó, ngăn chặn nguy cơ xâm lấn, quấy phá của thổ phỉ Mãn Thanh từ phía Bắc, bảo vệ cuộc sống của nhân dân. Mường Thanh trở thành khu trung tâm văn hóa, chính trị của đất Tây Bắc.

Vị tướng Hoàng Công Chất làm nhiều điều tốt cho dân như chia ruộng đất cho người dân, bảo vệ dân, chống được mọi cuộc xâm lấn, duy trì an ninh trật tự trong vùng... Ông được nhân dân các dân tộc Tây Bắc tôn kính, ngợi ca: “Chúa thật yêu dân/ Chúa xây bản mường/ Ai cũng nhờ chúa mà sống yên vui”...

Lễ hội tưởng nhớ “Chúa xây bản mường”

Để ghi nhớ công ơn của tướng Hoàng Công Chất, nhân dân các dân tộc tại Mường Thanh đã lập đền thờ ông cùng các bộ tướng trong thành Bản Phủ. Đền thờ Hoàng Công Chất - thành Bản Phủ cách thành phố Điện Biên khoảng 15km, nằm ở trung tâm cánh đồng Mường Thanh trù phú, vựa thóc lớn của vùng Tây Bắc.

Ban đầu, đền thờ Hoàng Công Chất là căn nhà 2 gian, mái lợp cỏ tranh. Sau khi mái cỏ bị cháy do hậu quả đốt nương của bà con, ngôi đền đã được tu sửa khang trang, mái lợp ngói. Bên cạnh đền, nhân dân đã trồng 3 cây đa, đề, si chung vào một gốc, gọi là cây đoàn kết để thể hiện tình đoàn kết keo sơn giữa người Thái, người Kinh và các dân tộc anh em trên mảnh đất Điện Biên Phủ anh hùng. Kể từ năm 1994, khi đền thờ Hoàng Công Chất chính thức được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận xếp hạng di tích lịch sử.

Trải qua thời gian, thăng trầm của lịch sử, một số dấu tích vòng tường thành vẫn còn tồn tại, là một trong những chứng tích ghi dấu ấn lịch sử quan trọng của vị tướng Hoàng Công Chất và nhân dân Tây Bắc trong công cuộc chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ vững chắc vùng biên cương Tổ quốc.

Ngày nay, tuy không còn mang dáng vẻ rộng lớn như xưa nhưng di tích Thành Bản Phủ được tôn tạo một đoạn tường thành để khách thăm quan có thể liên tưởng về tòa thành cổ uy nghi, bề thế, một công trình kiến trúc quân sự trấn thủ vùng biên cương. Bên cạnh đó, xây mới nhiều công trình như: Cổng thành Bản Phủ, nhà sàn cộng đồng, ao sen kè đá. Tuy được xây mới nhưng cổng thành Bản Phủ được xây theo kiến trúc cổ, bên trên cổng thành có kỳ đài và vọng gác rất phù hợp với cảnh quan của khu di tích.

Đứng trên vọng thành, du khách có thể ngắm nhìn phong cảnh toàn vùng với những mái nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện sau những rặng tre xanh và cánh đồng trải dài. Khu vực bên trong thành có nhà sàn văn hóa đủ sức chứa hàng trăm người, hai bên tường thành là ao sen kè đá chung quanh cùng hệ thống đường gạch và sân bãi rộng phục vụ cho những hoạt động văn hóa, lễ hội, vui chơi và thi đấu thể thao.

Một nghi thức trong Lễ hội Thành Bản phủ. (Ảnh: Mai Hoa).

Một nghi thức trong Lễ hội Thành Bản phủ. (Ảnh: Mai Hoa).

Tại trung tâm đền thờ sừng sững cây cổ thụ niên đại 300 năm được người dân nơi đây gọi là cây đại đoàn kết. Bởi cùng chung một gốc, nhưng lại là sự hòa hợp của 3 cây si, cây đa, cây đề gắn kết, hòa quyện vào nhau, tỏa bóng mát cho cả sân đền. Tương truyền rằng, cây cổ thụ này là do thủ lĩnh Hoàng Công Chất và 2 vị thủ lĩnh người Thái là tướng Ngải và tướng Khanh cùng trồng. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, cây cổ thụ vẫn vững chãi, như biểu tượng của tinh thần đoàn kết giữa người Thái, người Kinh và các dân tộc anh em trên mảnh đất Mường Thanh, tình đoàn kết giữa miền xuôi và miền ngược. Cạnh gốc đa cổ thụ là đền thờ Hoàng Công Chất cùng các bộ tướng. Đây là nơi để du khách dâng hương tỏ lòng thành kính và thành tâm khấn bái cầu xin an lành và những điều may mắn…

Những năm qua, huyện Điện Biên luôn tăng cường công tác giữ gìn, bảo vệ và tôn tạo, nâng cấp di tích để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước, đặc biệt là nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh Điện Biên.

Lễ hội thành Bản Phủ - đền Hoàng Công Chất tưởng nhớ công ơn của người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất và các tướng Lò Ngải, Lò Khanh, trước đây diễn ra vào ngày mùng 5/5 âm lịch (tương truyền đây là ngày nghĩa quân chiến thắng giặc Phẻ). Sau đó, lễ hội được đổi sang từ ngày 24 - 28/2 âm lịch trong tiết trời mùa xuân để phù hợp với không khí hội hè. Ngày chính hội là ngày 25/2 cũng là ngày mất của tướng quân Hoàng Công Chất.

Lễ hội đền Hoàng Công Chất - Thành Bản Phủ gồm phần lễ và phần hội. Mở đầu lễ hội là các tiết mục mang đậm bản sắc văn hóa dân gian như: Múa rồng, biểu diễn trống hội. Phần lễ diễn ra trang nghiêm với những nghi thức thiêng liêng được gìn giữ như: Rước kiệu, dâng hương, đọc chúc văn tưởng nhớ, tri ân công đức của vị thủ lĩnh Hoàng Công Chất và kêu gọi tinh thần đoàn kết các dân tộc.

Phần rước kiệu và màn tái hiện lịch sử, minh họa hình ảnh của tướng quân Hoàng Công Chất cùng tướng Ngải, tướng Khanh đánh đuổi giặc Phẻ, giải phóng Mường Thanh: “Trước linh hồn những người đã khuất/ Các dân tộc ngược xuôi đoàn kết/Yêu thương nhau như ruột thịt chan hòa/ Chung quả bầu, chung lỗ khoan xưa/ Gắn bó mãi như keo sơn… (Trích Điếu văn ngày lễ hội)

Ngay sau phần lễ là không khí nhộn nhịp sôi động của các hoạt động văn hóa văn nghệ và các trò chơi dân gian truyền thống của đồng bào các dân tộc. Không khí thật sự sôi động với nhiều tiết mục như trình diễn trang phục dân tộc, múa hát, trò chơi dân gian như: đẩy gậy, tung còn, kéo co, nhảy bao bố, bịt mắt bắt vịt…Bên cạnh đó, du khách sẽ được thưởng thức những món ăn dân tộc hay mua những sản phẩm địa phương như: thổ cẩm, đan lát, sản phẩm lưu niệm…

Lễ hội đền Hoàng Công Chất đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản phi vật thể quốc gia năm 2015. Lễ hội Hoàng Công Chất - Thành Bản Phủ ngoài ý nghĩa hoạt động tín ngưỡng còn là sự kiện văn hóa nhằm duy trì và phát huy những tinh hoa văn hóa của các dân tộc; Đồng thời cũng là dịp để giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, khơi dậy tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc và cùng chung tay xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.