Ủy thác Thi hành án: Làm thế nào hạn chế việc đương sự tẩu tán tài sản?

(PLVN) - Hiện nay, nhiều quy định về ủy thác thi hành án đang gặp khó khăn khi áp dụng trên thực tiễn, do đó việc sửa đổi các quy định này được đặt ra trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (THADS).
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Ủy thác đến nơi có giá trị tài sản lớn nhất

Khoản 1 Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: Thủ trưởng cơ quan THADS phải ủy thác thi hành án cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng; đối với loại tài sản khác thì có thể ủy thác cho cơ quan THADS nơi có tài sản tổ chức thi hành.

Trong khi đó, Điều 55 Luật THADS quy định: Thủ trưởng cơ quan THADS phải ủy thác thi hành án cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Như vậy, Bộ Tư pháp nhận định, nội dung quy định tại khoản 1 Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP không phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật THADS và dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau.

Vì vậy, để giải quyết vấn đề trên, đồng thời quy định rõ cơ sở để cơ quan THADS xác định được nơi có tài sản đủ để thi hành án hoặc nơi có tài sản có giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản nhất..., Dự thảo quy định: Căn cứ bản án, quyết định của Tòa án, kết quả xác minh, Thủ trưởng cơ quan THADS phải ủy thác thi hành án cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở.

Điểm c khoản 2 Điều 16 quy định: “Trường hợp tài sản không đủ để thi hành án thì ủy thác đến nơi có tài sản giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản nhất”. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể ủy thác đến đâu trong trường hợp có cả “nơi có tài sản giá trị lớn nhất” và “nơi có nhiều tài sản nhất”. Trong khi đó, tổng giá trị tài sản mới là điều cần quan tâm. Để giải quyết các vướng mắc trên, Dự thảo Nghị định quy định ủy thác đến: Nơi có giá trị tài sản lớn nhất. 

Cần quy định rõ hiệu lực của quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm

Khoản 3 Điều 16 Nghị định hiện hành quy định: Trường hợp bản án, quyết định tuyên tài sản bảo đảm cho khoản phải thi hành án cụ thể mà tài sản đó ở nơi khác thì có thể ủy thác khoản phải thi hành án mà tài sản đó bảo đảm cho cơ quan THADS nơi có tài sản bảo đảm.

Trường hợp bản án, quyết định tuyên tài sản bảo đảm cho khoản phải thi hành thì về nguyên tắc cơ quan THADS phải xử lý tài sản đó để đảm bảo thi hành án. Do đó, nếu tài sản ở nơi khác thì phải thực hiện việc ủy thác. Việc quy định “có thể ủy thác” sẽ tạo ra tính tùy nghi, không thống nhất của các cơ quan THADS trong việc áp dụng pháp luật.

Khoản 1 Điều 57 Luật THADS quy định: Trước khi ủy thác, cơ quan THADS phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác. Trường hợp Thủ trưởng cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án nhưng xét thấy cần ủy thác thì phải ra quyết định thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án và ra quyết định ủy thác cho nơi có điều kiện thi hành.

Trên thực tế, Bộ Tư pháp cho rằng, ngoài những trường hợp tài sản tại nơi ủy thác không đủ để thi hành án theo quy định thì còn có nhiều trường hợp tài sản tại nơi ủy thác đang có tranh chấp, đã được tòa án thụ lý, việc xử lý tài sản bị hoãn theo quy định tại Điều 48 Luật THADS và Điều 14 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Tuy nhiên, người phải thi hành án vẫn còn tài sản ở các địa phương khác nên cần phải có quy định về việc ủy thác để xử lý đối với những tài sản này để đảm bảo thi hành án hiệu quả.

Do đó, để thuận lợi cho việc tổ chức thi hành án, hạn chế việc đương sự tẩu tán tài sản, đồng thời để các cơ quan THADS biết được kết quả tổ chức thi hành án của nhau để phối hợp và xử lý tài sản cho phù hợp, Dự thảo bổ sung quy định: Trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 48 Luật THADS mà đương sự có tài sản ở địa phương khác thì cơ quan THADS ủy thác đến nơi có tài sản để thi hành.

Bên cạnh đó, hiện nay, pháp luật quy định trước khi ủy thác thì cơ quan THADS phải thu hồi quyết định thi hành án. Trong trường hợp này, cần quy định rõ hiệu lực của các quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, quyết định tạm hoãn xuất cảnh đối với người phải thi hành án đã được ban hành (nếu có) trong thời gian cơ quan được ủy thác nhận được quyết định ủy thác để tránh trường hợp đương sự cho rằng quyết định thi hành án đã được thu hồi thì các quyết định kèm theo hết hiệu lực để tẩu tán tài sản...

Do đó, Dự thảo quy định rõ theo hướng các quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm, quyết định tạm hoãn xuất cảnh và các quyết định về thi hành án khác liên quan đến khoản ủy thác có hiệu lực cho đến khi có quyết định mới của cơ quan nhận ủy thác. Khi ra quyết định thi hành án, cơ quan THADS nhận ủy thác phải ra quyết định thay thế quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm, quyết định tạm hoãn xuất cảnh và các quyết định về thi hành án liên quan đến khoản ủy thác. 

Đọc thêm