12 dự án thua lỗ ngành Công Thương nợ gần 21 ngàn tỷ đồng

(PLVN) - Tình trạng của 12 dự án “đắp chiếu” tính đến thời điểm hiện tại: Có 2 dự án, doanh nghiệp có lãi (trong đó 1 doanh nghiệp vẫn còn lỗ lũy kế); 2 dự án giảm được lỗ nhưng chưa bền vững; 1 dự án dừng hoạt động đã vận hành trở lại; 7 dự án, doanh nghiệp còn thua lỗ hoặc dở dang, dừng hoạt động.
Dự án Nhà máy sản xuất sơ xợi polyester Đình Vũ đã giải quyết xong tranh chấp và sản xuất trở lại.

7 dự án còn thua lỗ hoặc dở dang, dừng hoạt động

Theo báo cáo của Uỷ ban Quản lý vốn tại DN về kết quả xử lý các tồn tại, yếu kém của một số dự án, DN chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương trong giai đoạn 2017-2019, hiện đã hoàn thành khoảng 75,36%.

Tuy nhiên, những vướng mắc mấu chốt nhất của các dự án, DN chưa được giải quyết, phần lớn tập trung ở các nhiệm vụ còn lại với 3 nhóm vấn đề: Xử lý dứt điểm tranh chấp, vướng mắc để quyết toán hợp đồng tổng thầu (EPC), quyết toán toàn bộ dự án; khó khăn về tài chính, cơ cấu lại nợ, giãn khấu hao, điều chỉnh lãi suất vay; xây dựng phương án thoái vốn.

Hiện tại, có 2 dự án, DN có lãi (trong đó 1 DN vẫn còn lỗ lũy kế); 2 dự án giảm được lỗ nhưng chưa bền vững; 1 dự án dừng hoạt động đã vận hành trở lại; 7 dự án, DN còn thua lỗ hoặc dở dang, dừng hoạt động.

5 dự án, DN có tranh chấp, vướng mắc hợp đồng EPC gồm: Dự án xây dựng Nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2 - Lào Cai, Dự án cải tạo - mở rộng Nhà máy Phân đạm Hà Bắc, Dự án nhà máy đạm Ninh Bình, Dự án Xây dựng Nhà máy công nghiệp tàu thủy Dung Quất, Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 của Công ty CP Gang thép Thái Nguyên.

Dư nợ của các dự án, DN tại các tổ chức tín dụng lớn, đa số không trả được nợ đúng hạn. Hiện có 17 ngân hàng thương mại và 1 công ty tài chính cấp tín dụng cho 12 dự án với tổng số dư nợ đến thời điểm 31/12/2019 là 20.938 tỷ đồng. Trong đó, dư nợ trung dài hạn là 17.169 tỷ đồng, dư nợ ngắn hạn là 3.769 tỷ đồng.

Việc xác định trách nhiệm, xử lý đối với các tổ chức, cá nhân có sai phạm đã được tiến hành. Toàn bộ 12 dự án, DN đều đã được thanh tra, kiểm toán, điều tra ở các cấp độ khác nhau để phát hiện các sai phạm, vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định pháp luật.

Xử lý theo nguyên tắc thị trường

Quan điểm chung trong việc xử lý 12 dự án nêu trên, Uỷ ban Quản lý vốn nhất quán xử lý các dự án, DN thua lỗ theo nguyên tắc thị trường, quy định của pháp luật; bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DN.

Đồng thời, kiên quyết thực hiện phá sản, giải thể theo quy định đối với các dự án, DN không có khả năng khắc phục để thu hồi tối đa vốn, tài sản nhà nước, hạn chế thấp nhất mất vốn nhà nước; bảo đảm quyền lợi cho người lao động, an ninh trật tự xã hội và ổn định môi trường kinh doanh.

Về nhiệm vụ cụ thể, đại diện Uỷ ban Quản lý vốn cho biết, lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty có dự án, DN nằm trong số 12 dự án, DN chậm tiến độ, kém hiệu quả chịu trách nhiệm chính, căn cứ thẩm quyền và quy định của pháp luật để chủ động xử lý các khó khăn, vướng mắc của DN.

Cơ quan quản lý nhà nước có chức năng hướng dẫn về mặt pháp lý với các đề xuất, giải pháp đề ra nhằm giải quyết vướng mắc với 12 dự án, đảm bảo không trái các quy định pháp luật; phù hợp với thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng và các cơ quan, DN. Bên cạnh đó, xác định rõ những nội dung vượt thẩm quyền của Thủ tướng (nếu có) và đề xuất biện pháp xử lý.

Với xử lý vướng mắc về tranh chấp hợp đồng EPC, Uỷ ban Quản lý vốn cho biết, các tập đoàn, tổng công ty cần chủ động sử dụng tư vấn luật để hệ thống lại toàn bộ hợp đồng EPC đối với từng dự án, rà soát kỹ nội dung còn tranh chấp, vướng mắc; đánh giá các khả năng (hòa giải, xử lý khởi kiện hoặc chấm dứt hợp đồng) để lựa chọn phương án xử lý dứt điểm tối ưu. Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng hướng dẫn cụ thể việc thanh, quyết toán hợp đồng EPC đối với các nội dung thuộc lĩnh vực.

Với các khó khăn về tài chính, tín dụng như chịu lãi suất cao, chi phí tài chính lên đến 30%... các DN chủ yếu đề xuất hướng giải quyết tập trung vào 3 giải pháp cơ cấu nợ, khoanh nợ; giãn khấu hao; giảm lãi suất.

Về vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, theo Luật Các tổ chức tín dụng, các tổ chức tín dụng có quyền tự chủ động hoạt động kinh doanh, xem xét điều chỉnh lãi suất cho vay trên cơ sở cân đối nguồn vốn, lãi suất huy động và khả năng tài chính của từng ngân hàng thương mại. Với việc khoanh nợ, theo quy định hiện hành các DN gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan mới được xem xét khoanh nợ. 

Đọc thêm