Bà Rịa -Vũng Tàu: 10 năm rắc rối vụ kiện Việt kiều đòi nhà đất

(PLO) - Vụ kiện “Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất” tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã kéo dài suốt 10 năm và trải qua 4 phiên tòa các cấp và 2 kháng nghị, nhưng đến nay vẫn chưa có hồi kết. Phía bị đơn cho rằng, Quyết định giám đốc thẩm của Tòa Dân sự TAND Tối cao còn chưa “thấu tình, đạt lý”…
Một trong những nhà đất xảy ra tranh chấp.
Một trong những nhà đất xảy ra tranh chấp.

Việt kiều bị tố chiếm nhà

Phản ánh đến Báo PLVN, vợ chồng ông Phan Danh, bà Nguyễn Thị Du (trú tại số 60/20 Nguyễn Kim, phường 4, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) cho biết: nhà, đất tại các số 16, 18, 14/1, 14/3 và 30m2 đất tọa lạc tại đường Chu Mạnh Trinh (phường 8, TP Vũng Tàu) được vợ chồng ông, bà mua để kinh doanh, thuộc quyền sở hữu và sử dụng của vợ chồng ông, bà.

Trong quá trình sử dụng, do có mối quan hệ với bà Trần Thị Liêng, quốc tịch Hoa Kỳ - Pháp (gia nhập quốc tịch Việt Nam năm 2007) và do bà Liêng có hứa sẽ bảo lãnh cho con ông, bà đi du học ở nước ngoài nên vợ chồng ông, bà đã cho bà Liêng ở nhờ căn nhà tại số 16 đường Chu Mạnh Trinh...

Tuy nhiên, sau đó bà Liêng chiếm giữ và cho rằng của bà bỏ tiền ra mua, nhưng tại thời điểm mua bà là Việt kiều, đang định cư ở nước ngoài (Hoa Kỳ) nên theo quy định của pháp luật Việt Nam tại thời điểm đó bà không được phép đứng tên. Vì vậy, bà có nhờ vợ chồng ông Danh, bà Du đứng tên trong các hợp đồng mua bán nhà, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đứng tên Giấy chứng nhận. Sau đó bà hồi hương về Việt Nam sinh sống, nên đã làm đơn khởi kiện vợ chồng ông Danh, bà Du ra TAND TP Vũng Tàu yêu cầu hủy toàn bộ giấy chứng nhận đứng tên ông Danh, bà Du đối với 4 căn nhà và đất trên, đồng thời công nhận bà được quyền sở hữu.

Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Liêng, ông Danh, bà Du đã có đơn phản tố yêu cầu bà Liêng phải trả lại các nhà, đất trên cho vợ chồng ông, bà.

10 năm vẫn chưa giải quyết xong một vụ kiện

Ngày 28/7/2008, TAND TP Vũng Tàu đưa vụ án ra xét xử đã bác yêu cầu khởi kiện của bà Liêng, công nhận nhà đất thuộc quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Danh, bà Du. Buộc bà Liêng giao trả nhà đất trên cho vợ chồng ông Danh, bà Du.

Ngày 3/8/2008, bà Liêng có đơn kháng cáo. Ngày 19/11/2008, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đưa vụ án trên ra xét xử và đã quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bà Liêng. Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bà Liêng sau đó có đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Ngày 20/11/2009, Chánh án TAND Tối cao có Quyết định kháng nghị số 649/2009/KN-ST đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 144/2008/DSST của TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đề nghị Tòa Dân sự TAND Tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2008/DSST của TAND TP Vũng Tàu; giao hồ sơ vụ án cho TAND Vũng Tàu xét xử sơ thẩm lại.

Tạm đình chỉ thi hành bản án dân sự phúc thẩm trên cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm, trong đó có nhận định: “Xét về mặt pháp lý, vợ chồng ông Danh, bà Du là người đứng tên bên mua trong hợp đồng mua bán, các chủ nhà cũ không có tranh chấp, hợp đồng mua bán đã hoàn thành, giao dịch đã thực hiện xong nên không có căn cứ để hủy các giao dịch trên cho bà Liêng tham gia vào giao dịch. Vì vậy, xác định ông Danh, bà Du là chủ sở hữu các căn nhà trên, buộc bà Liêng trả lại nhà cho ông Danh, bà Du là có căn cứ. Tuy nhiên, có căn cứ xác định bà Liêng là người bỏ tiền mua nhà nên bà Liêng có quyền hưởng chênh lệch giá nhà cùng vợ chồng ông Danh, bà Du...”.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 134/2010/DS-GĐT ngày 15/4/2010, Tòa Dân sự TAND Tối cao đã chấp nhận Quyết định kháng nghị trên của Chánh án TAND Tối cao.

Ngày 4/10/2011, TAND TP Vũng Tàu đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm lần 2, quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Liêng. Chấp nhận yêu cầu phản tố của vợ chồng ông Danh, bà Du về việc đòi nhà cho ở nhờ đối với bà Liêng. Công nhận ông Danh, bà Du được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất toàn bộ nhà đất trên. Buộc bà Liêng phải giao trả toàn bộ nhà đất trên cho ông Danh, bà Du...

Ngày 4/10/2011, bà Liêng lại kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm trên, đến ngày 18/10/2011, một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này kháng cáo một phần bản án.

Ngày 20/6/2012, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm lần 2 vẫn quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Liêng đối với ông Danh, bà Du về nhà đất nêu trên; công nhận ông Danh, bà Du được quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất trên... Bà Liêng lại có đơn đề nghị xem xét bản án dân sự phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Ngày 7/2/2014, Chánh án TAND Tối cao có Kháng nghị Giám đốc thẩm số 25/2014/KN-DS đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 34/2012/DSPT ngày 20/6/2012 của TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đề nghị Tòa Dân sự TAND Tối cao xét xử Giám đốc thẩm hủy Bản án phúc thẩm trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 41/2011/DSST ngày 4/10/2011 của TAND TP Vũng Tàu; giao hồ sơ vụ án cho TAND TP Vũng Tàu xét xử sơ thẩm lại theo quy định. Tạm đình chỉ thi hành bản án dân sự phúc thẩm trên cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm, nhận định: “Thực tế toàn bộ nhà và đất trên đều do vợ chồng ông Danh, bà Du là người đứng tên bên mua trong hợp đồng mua bán, chuyển nhượng. Các chủ nhà đất cũ cũng không có tranh chấp, các hợp đồng mua bán, chuyển nhượng đã hoàn thành, giao dịch đã thực hiện xong. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án thể hiện có biên nhận bà Liêng trả tiền, có biên nhận do ông Danh trả tiền mua nhà, nhận chuyển nhượng đất...”.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 213/2014/DS-GĐT ngày 5/6/2014, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự TAND Tối cao quyết định chấp nhận Kháng nghị Giám đốc thẩm số 25/2014/KN-DS ngày 7/2/2014 của Chánh án TAND Tối cao; giao hồ sơ vụ án cho TAND  TP Vũng Tàu xét xử sơ thẩm lại.

Tháng 11/2014, TAND TP Vũng Tàu thụ lý lại vụ án này. Đến ngày 22/7/2016, TAND TP Vũng Tàu có Quyết định số 10/2016/QĐST-CAV chuyển toàn bộ hồ sơ Vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 298/2014/TLST-DS ngày 25/11/2014 cho TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

Cần xem xét đúng bản chất của vụ án

Liên quan đến vụ án, ông Danh, bà Du cho biết, các nhà đất trên là của vợ chồng ông mua và đứng tên giấy chứng nhận là thực tế, các bản án sơ thẩm và phúc thẩm của TAND TP Vũng Tàu và TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đều nhận định yêu cầu của bà Liêng là không có căn cứ. Hồ sơ của vụ án thể hiện rõ các hợp đồng mua, bán chuyển nhượng nhà đất đều đứng tên vợ chồng ông Danh, bà Du theo đúng quy định, đã hoàn thành, giao dịch đã thực hiện xong.

 “Tuy nhiên, việc TAND Tối cao có Kháng nghị số 25/2014/DS-ST yêu cầu hủy án sơ thẩm và phúc thẩm với lý do xác minh, làm rõ số tiền bà Liêng, ông Danh đã bỏ ra mua nhà bao nhiêu và Tòa Dân sự TAND Tối cao có Quyết định giám đốc thẩm số 213/2014/DS-GĐT chấp nhận kháng nghị  là không xác đáng. Các tình tiết, chứng cứ khách quan có lợi cho gia đình tôi đã không được Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự TAND Tối cao xem xét công tâm, khách quan làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi, công sức và thời gian theo đuổi vụ kiện của vợ chồng tôi”, ông Danh nói.

Cũng theo ông Danh, sau khi được tòa án thụ lý lại vụ án đến nay bà Liêng không cung cấp được tài liệu chứng cứ mới liên quan đến việc xác định việc bà Liêng bỏ ra bao nhiêu tiền để mua nhà đất.

“Bà Liêng cho rằng mua nhà đất tại số 16 và 18 vào năm 2001, tuy nhiên việc này có nhiều mâu thuẫn như: giấy biên nhận tiền không không phù hợp giá thỏa thuận mua bán; hình thức thanh toán lúc thì bằng vàng, lúc bằng USD, mâu thuẫn về số tiền trả và đều là giấy viết tay, không có người làm chứng”, ông Danh cho biết.

Theo ông Danh, trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Liêng là người có quốc tịch Hoa Kỳ và Pháp, được gia nhập quốc tịch Việt Nam năm 2007, nhập hộ khẩu vào nhà bà Trần Thị Xuân tại địa chỉ 283/133 Nguyễn Tri Phương, phường 8, quận 10, TP HCM và được Công an TP HCM cấp CMND ngày 25/7/2007 có nhiều dấu hiệu không rõ ràng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông. Chính vì vậy, ông Danh đã đề nghị TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hỗ trợ, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ nhân thân về việc nhập quốc tịch, hộ khẩu và CMND của bà Liêng có đúng hay không để làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông.

Trước đề nghị của ông Danh, ngày 13/1/2017, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có Văn bản số 10/2017/CV-TA gửi Sở Tư pháp TP HCM đề nghị cung cấp nội dung: Sở Tư pháp có làm thủ tục nhập lại quốc tịch Việt Nam cho bà Liêng, sinh năm 1949, quốc tịch Hoa Kỳ không? Nếu có, bà Liêng xin nhập lại quốc tịch Việt Nam vào thời gian nào? Ai là người đứng tên trong tờ khai bảo lãnh cho bà Liêng nhập lại quốc tịch Việt Nam? Việc nhập lại quốc tịch cho bà Liêng có đúng quy định không để làm căn cứ giải quyết?

Cũng tại văn bản này, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đề nghị Sở Tư pháp TP HCM sao lục toàn bộ hồ sơ liên quan đến việc nhập lại quốc tịch Việt Nam của bà Liêng để cung cấp cho tòa án.

Ngày 7/3/2017, TAND Bà Rịa-Vũng Tàu tiếp tục có Văn bản số 71/2017/CV-TA gửi Phòng Quản lý xuất nhập cảnh, Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an TP HCM đề nghị cung cấp toàn bộ hồ sơ liên quan đến việc nhập lại quốc tịch Việt Nam, nhập cảnh vào Việt Nam, nhập hộ khẩu vào nhà bà Xuân tại địa chỉ 283/133 Nguyễn Tri Phương, phường 8, quận 10 và hồ sơ cấp CMND của bà Liêng. Có văn bản xác định rõ việc nhập lại quốc tịch Việt Nam, nhập cảnh vào Việt Nam, nhập hộ khẩu vào nhà bà Xuân và việc cấp CMND của bà Liêng có hợp pháp không?

“Việc xác định nhân thân, chủ thể của đương sự tranh chấp trong vụ án là chứng cứ rất quan trọng, nhưng đến nay tôi vẫn chưa nhận được kết quả xác minh. Tôi hy vọng các tình tiết, chứng cứ của vụ án này sẽ được sớm xem xét, làm rõ một các khách quan toàn diện đảm bảo quyền lợi cho gia đình tôi”, ông Danh nói.

Đọc thêm