Văn hóa & Pháp luật

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước: Nỗ lực phát huy giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam

(PLVN) -  Được xem như cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, có thể khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã và đang rọi sáng cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ trong tình hình hiện nay cũng như hoàn thiện, củng cố hệ thống pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Giá trị lý luận của Đề cương luôn mang tính thời sự nóng hổi

Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời trong bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó mang tính chất thực dân nửa phong kiến đang suy thoái trầm trọng, chiến tranh thế giới thứ hai đang làm cho đất nước kiệt quệ, tình hình chính trị, xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp nhưng cũng đặt ra những thời cơ cho cuộc cách mạng…

Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự khai mạc “Triển lãm Văn hóa”, do Hội văn hóa Cứu quốc tổ chức tại trụ sở cũ của Hội Khai trí Tiến Đức ( Hà Nội), ngày 7.10.1945 - ảnh tư liệu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự khai mạc “Triển lãm Văn hóa”, do Hội văn hóa Cứu quốc tổ chức tại trụ sở cũ của Hội Khai trí Tiến Đức ( Hà Nội), ngày 7.10.1945 - ảnh tư liệu.

Ra đời năm 1943, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh chấp bút giống như một Cương lĩnh văn hóa của Đảng, đã chứng tỏ sức sống của mình trong cuộc cách mạng xã hội toàn diện, sâu sắc chưa từng có trong lịch sử dân tộc.

Trong bài viết “Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943: Ngọn cờ tập hợp trí thức tham gia cách mạng” đăng tải trên Tạp chí Tuyên giáo tháng 2/2023, tác giả Phạm Quang Long đã viết: “Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 trở thành tài liệu đầu tiên, quan trọng và duy nhất, có tác dụng tập hợp lực lượng rất lớn những người có tư tưởng tiến bộ bấy giờ trong mặt trận Văn hóa cứu quốc.

Đề cương nêu ra ba phương châm lớn (văn bản gọi là ba nguyên tắc) của cuộc “vận động văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn này là “dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa”. Dân tộc hóa là “chống mọi ảnh hưởng nô dịch, thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”, đại chúng hóa là “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đại chúng hoặc xa đông đảo quần chúng” và khoa học hóa là “chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”.

Tháng 2.1943, Đề cương văn hóa Việt Nam đã được Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên, nay là Hà Nội)

Tháng 2.1943, Đề cương văn hóa Việt Nam đã được Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên, nay là Hà Nội)

Từ đây có thể nói, sự ra đời và trường tồn của Đề cương về văn hóa Việt Nam đã và đang xác định các phương pháp, hình thức, cách thức lãnh đạo đa dạng, linh hoạt của Đảng, phù hợp lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, trở thành nhân tố quyết định nhất bảo đảm thành công của cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóa, tư tưởng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nhìn từ cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng qua các giai đoạn lịch sử nước nhà cho đến hiện nay, Đề cương vẫn luôn mang tính thời sự nóng hổi.

Vì thế, nhân kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam, trong bài viết “Đề cương về văn hoá Việt Nam 1943: Nền tảng lý luận và động lực phát triển văn hóa, con người Việt Nam” đăng tải trên Báo Pháp luật Việt Nam tháng 5/2023, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng đã nhấn mạnh:

“Sau ngày thống nhất đất nước, đặc biệt kể từ khi bước vào công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, cùng với các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế, chính trị, từ sự kế thừa các giá trị về lý luận của Đề cương về văn hóa Việt Nam để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển về văn hóa, nhận thức của Đảng về vai trò, vị thế của văn hóa cũng như các mục tiêu phát triển văn hóa cụ thể, đã có những chuyển biến rõ rệt trước yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới.

Theo đó, “Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (năm 1991), Đảng ta đã xác định, chúng ta cần xây dựng “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1993) Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII (1998), tới Nghị quyết số 33-NQ/TW nhấn mạnh mục tiêu “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Và tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta khẳng định “... Gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển KT-XH là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên…”.

Củng cố sức mạnh của Đề cương trên “mặt trận” pháp luật

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng đã xác định văn hóa là một trong ba mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH. Do đó, thấm nhuần tư tưởng chủ đạo của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, xây dựng, củng cố và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về văn hóa là cơ sở quan trọng để phát huy tối đa các nguồn lực, làm cho văn hóa trở thành nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện với các đại biểu tham dự Hội nghị văn hóa toàn quốc 2021

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện với các đại biểu tham dự Hội nghị văn hóa toàn quốc 2021

Từ đó có thể thấy, việc cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng, hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển văn hóa là đáp ứng nhu cầu của người dân và yêu cầu của thực tiễn trong phát triển bền vững đất nước.

Quan điểm này đã được PGS.TS Nguyễn Duy Bắc - Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong bài viết “Đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách và huy động nguồn lực cho phát triển văn hóa” đăng trên website Tạp chí Cộng sản tháng 3/2023.

Theo PGS.TS Nguyễn Duy Bắc, chính sách vĩ mô của Nhà nước về phát triển văn hóa đã được thể hiện trong Điều 60 Hiến pháp năm 2013 và trong chính sách vĩ mô của Nhà nước về phát triển văn hóa nói chung thì việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa nói riêng là vô cùng quan trọng.

Để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và nâng cao đời sống vật chất, đời sống tinh thần cho nhân dân, Quốc hội đã ban hành các đạo luật như: Luật Sở hữu trí tuệ; Luật Di sản văn hóa; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Xuất bản; Luật Báo chí; Luật Điện ảnh; Luật Quảng cáo; Luật Du lịch; Luật Thể dục, thể thao; Luật Thư viện; Luật Giáo dục; Luật Khoa học và công nghệ...

Đây cũng là quan điểm của người đứng đầu ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng, quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật đã và đang hình thành nền tảng pháp lý toàn diện và hệ thống, góp phần tăng cường sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước của văn hóa; khung chính sách đã tạo môi trường thể chế cho phép các ngành công nghiệp văn hóa khai thác, chuyển hóa các nguồn tài nguyên văn hóa thành “sức mạnh mềm” văn hóa; hệ thống các văn bản pháp luật để khuyến khích xã hội hóa, thu hút nguồn lực từng bước tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động mọi nguồn lực trong xã hội đầu tư cho văn hóa; cơ chế, chính sách đang từng bước góp phần cải thiện chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật…

Mặt khác, quá trình hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật trong lĩnh vực văn hóa cũng đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, di sản, di tích lịch sử - văn hóa, bảo vệ sự đa dạng của văn hóa các dân tộc, vùng, miền, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp phần bảo vệ an ninh chính trị và giữ vững chủ quyền quốc gia của Tổ quốc…

Cũng cần nói thêm rằng, không chỉ bó hẹp ở hệ thống pháp luật về văn hóa mà trong công tác lập pháp nói chung, việc kế thừa và củng cố sức mạnh của Đề cương về văn hóa Việt Nam cũng đã và đang được chú trọng.

Ở góc độ ngành Tư pháp, TS Nguyễn Văn Cương - Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp trong bài viết “80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam từ góc nhìn ngành Tư pháp” đăng tải trên Báo Pháp luật Việt Nam tháng 5/2023 đã nhấn mạnh pháp luật là bộ phận không thể tách rời của nền văn hóa dân tộc.

Theo TS Nguyễn Văn Cương, đây là điều hết sức tự nhiên bởi pháp luật là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của nền văn hóa dân tộc như Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới đã quan niệm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Cũng theo TS Nguyễn Văn Cương, tính từ khi Đảng ta tiến hành đường lối Đổi mới vào năm 1986 đến nay, Bộ Tư pháp đã được giao làm cơ quan chủ trì tham mưu xây dựng hàng chục đạo luật quan trọng, trong đó có những đạo luật mang tính rường cột của nước nhà như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Thi hành án dân sự…

Điểm nổi bật có thể thấy khi nghiên cứu các đạo luật do Bộ, ngành Tư pháp tham mưu xây dựng là sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa” và “khoa học hóa” trong từng quy định. Từng bộ luật, luật do Bộ, ngành Tư pháp tham mưu xây dựng đều được quán triệt phương châm “bám sát thực tiễn đất nước” và “xu thế phát triển của thời đại”, kế thừa truyền thống pháp lý của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, qua đó, bảo đảm được tính “dân tộc hóa”, “khoa học hóa” trong thiết kế từng quy phạm.

“Điểm nổi bật nữa thể hiện tính “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa” và “khoa học hóa” trong công tác tham mưu xây dựng và thi hành pháp luật của Bộ, ngành Tư pháp chính là sự thấm nhuần tư tưởng tư pháp “ở đời và làm người”, nỗ lực “làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Nhờ đó, những giá trị văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam - chủ thể của nền văn hóa dân tộc Việt Nam như “yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo” được phản ánh, ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm trong các quy định pháp luật do Bộ, ngành Tư pháp tham mưu xây dựng” - TS Nguyễn Văn Cương nhấn mạnh.

“Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến văn hóa. Tư tưởng của Người về văn hóa luôn dẫn dắt, định hướng trong quá trình xây dựng, phát triển, nâng cao tầm vóc nền văn hóa Việt Nam. Người luôn cho rằng “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Văn hóa là nền tảng, là động lực cho sự phát triển xã hội. Bản Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943 dưới sự chỉ đạo của Đảng mà Tổng Bí thư Trường Chinh là người khởi thảo là văn kiện chính thức đầu tiên của Đảng về công tác văn hóa, văn nghệ… Các nội dung được thể hiện trong bản Đề cương có một sự tương đồng vô cùng lớn với tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, cho thấy một sự thống nhất về tư tưởng chỉ đạo của Đảng nói chung cũng như của Tổng Bí thư Trường Chinh - người học trò xuất sắc của Người…” (Trích “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và bản Đề cương văn hóa 1943” của TS. Chu Đức Tính - nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh).

Đọc thêm