Điều đáng nói, khi bị người anh đòi lại, vợ chồng bà Thi không những chưa chịu trả mà đòi anh trai phải hỗ trợ một số tiền lớn cho mình. Vụ việc đã được đưa ra tòa án giải quyết nhưng qua 8 năm, đến nay khi sức khỏe người anh ngày một yếu kém, vụ việc vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa.
Phản ánh tới Báo PLVN, ông Cao Đức Ứng (cùng trú tại thôn Bờ Đa) cho biết, năm 1981, ông sang lao động tại Bungari. Đến năm 1984, ông có gửi tiền và hàng hóa về nhờ ông Cao Bá Trường (anh trai) mua hộ một mảnh đất thuộc thửa đất số 185, tờ bản đồ số 6, đường Hữu Nghị, khu dân cư Hưng Đạo, phường Sao Đỏ, thị xã Chí Linh (nay là TP. Chí Linh) và nhờ trông nom hộ.
Thời gian sau đó, ông có về phép thăm quê vài lần nhưng do chưa có nhu cầu sử dụng nên ông chưa thực hiện thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Trên thửa đất sau đó có xây một ngôi nhà hai gian bằng đất và hai người em trai của ông đã lên đây ở để tiện cho việc đi học.
Năm 2011, khi từ nước ngoài trở về, ông Ứng được mọi người cho biết, vì ông Trường và mẹ ông đã mất, nên thửa đất đã được giao cho vợ chồng bà Cao Thị Thi (em gái ông) trông nom giúp. Ông đã đến gặp em gái để xin lại đất và ngỏ ý trả một số tiền trông nom, đóng thuế cho bà Thi nhưng không được chấp thuận.
Sau đó, biết được chuyện gia đình bà Thi xây nhà, xây ki-ốt trên đất của mình, ông Ứng lại trở về Việt Nam và ngỡ ngàng khi biết thửa đất đã được cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng bà Thi từ năm 2004 nhưng không có số giấy chứng nhận cũng như thời gian cấp giấy. Qúa bức xúc, ông Ứng quyết đòi lại đất. Một cuộc tranh chấp đất đai giữa hai anh em nổ ra. Các cuộc hòa giải bất thành, ông Ứng khởi kiện vụ việc ra tòa và yêu cầu hủy GCNQSDĐ đã cấp cho vợ chồng bà Thi.
Theo đó, tại bản án số 04/2018/DS-ST ngày 26/4/2018 có cho hay, năm 1986, vợ chồng bà Thi mua lại thửa đất số 185 trên từ chính ông Trường (anh trai) và cụ Ngư (mẹ đẻ). Việc mua bán đó chỉ thỏa thuận bằng miệng, không lập thành văn bản. Tuy không ở nhưng gia đình bà có nộp thuế.
Năm 1993, bà có xây một móng nhà, năm 2004 được cấp GCNQSDĐ. Đến năm 2012, bà cho vợ chồng con gái tên là Hải xây dựng 5 ki-ốt (có xây lấn chiếm ra vỉa hè 1,5 mét) với tổng chi phí là 370 triệu đồng. Mục đích để họ cho thuê và đã được hưởng toàn bộ tiền cho thuê từ đó đến nay.
Cho rằng việc mua bán đất, được cấp GCNQSDĐ của mình là hợp pháp, bà Thi không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ứng. Nhưng nếu Tòa án chấp thuận yêu cầu khởi kiện của ông Ứng, buộc vợ chồng bà phải trả đất, bà yêu cầu ông Ứng phải trả lại giá trị tài sản ông bà đã xây dựng trên thửa đất đó.
Trong khi đó, tại kết quả kiểm tra, xác minh của UBND thị xã Chí Linh lại cho thấy, hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng bà Thi chưa đảm bảo về trình tự, thủ tục khi trong hồ sơ chỉ có Đơn xin đăng ký và đề nghị cấp GCNQSDĐ ở có chữ ký của bà Thi và Biên bản xác minh hiện trạng nhà đất, không có tài liệu gì khác kể cả tài liệu chứng minh về nguồn gốc đất. Việc vợ chồng bà Thi được cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất này là do vợ chồng ông bà tự kê khai, UBND thị trấn Sao Đỏ (nay là UBND phường Sao Đỏ) trong quá trình cấp đã không thẩm tra kỹ hồ sơ dẫn đến sai sót. Vì vậy, theo quy định, đủ điều kiện kiến nghị cấp có thẩm quyền thu hồi GCNQSDĐ đó.
Ngược lại, về phần ông Ứng, trong sổ mục kê kèm theo bản đồ đo đạc năm 1993 lưu giữ tại UBND phường Sao Đỏ có thể hiện thửa đất trên mang tên người đăng ký là Nguyễn Văn Ứng. Tuy nhiên, việc ghi họ, tên đệm không chính xác như vậy là do thời điểm đó, ông đang ở Bungari và không có giấy tờ tùy thân ở nhà. Vì vậy, UBND thị xã Chí Linh đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Ứng về việc hủy GCNQSDĐ cấp cho vợ chồng bà Thi.
Về hướng giải quyết vụ án, đại diện VKSND tỉnh Hải Dương cũng nhất trí yêu cầu khởi kiện của ông Ứng. Đối với các tài sản trên đất, giữa ông Ứng với vợ chồng bà Thi, con gái bà Thi đều không có hợp đồng xây móng nhà và xây ki-ốt nên ông không phải trả giá trị tài sản trên đất.
Tại phiên tòa, ông không tự nguyện hỗ trợ mà xác định gia đình bà Thi thích thì dỡ bỏ công trình. Nhưng do các hộ đang thuê để kinh doanh phát triển kinh tế, gia đình và xã hội nên cần buộc ông Ứng hỗ trợ cho vợ chồng bà Thi khoảng 250 triệu đồng tiền trông coi đất.
Trước những ý kiến trên, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã quyết định chấp nhận yêu cầu của ông Ứng. Cụ thể, buộc bà Thi trả lại đất cho ông Ứng và hủy GCNQSDĐ đã cấp cho vợ chồng bà; Giao ông Ứng và vợ 5 gian ki-ốt, một móng nhà hiện đang có trên thửa đất. Khi UBND phường Sao Đỏ có yêu cầu, ông bà phải có trách nhiệm tháo dỡ phần ki-ốt đã xây dựng lấn ra vỉa hè đường Hữu Nghị; ông Ứng phải trả cho vợ chồng con gái bà Thi 304.484.000đ giá trị 5 ki-ốt, trả cho vợ chồng bà Thi 5.926.000đ giá trị móng nhà.
Ông Ứng hiện nay vẫn phải đi ở nhờ nhà của một người em gái |
Chia sẻ với phóng viên, ông Ứng buồn bã nói, vì đất bị em gái “cướp” mất nên suốt 8 năm qua, ông đã phải tạm dừng công việc để trở về Việt Nam giải quyết vụ việc.
Trước đó, tại các cuộc hòa giải, nếu bà Thi chịu trả lại đất, ông đồng ý hỗ trợ 280 triệu đồng cho em gái nhưng bà Thi đòi ông số tiền 570 triệu đồng. Thấy em gái quá tham lam, ông đành khởi kiện ra tòa. “Bằng những căn cứ, tài liệu đã được xác minh, những tưởng tòa án công minh, sẽ xét xử công bằng cho tôi song họ phân xử như vậy khiến tôi vô cùng hụt hẫng và làm đơn kháng cáo”, ông Ứng cho biết.
Thế nhưng, một lần nữa ông lại lâm vào cảnh hụt hẫng, bởi ở bản án số 38/2019/DS-PT ngày 9/4/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội vẫn quyết định giao cho vợ chồng ông Ứng 5 ki-ốt và một móng nhà đã xây dựng trên thửa đất số 185, đồng thời buộc vợ chồng ông phải trả cho vợ chồng con gái bà Thi số tiền 304.484.000 đồng giá trị 5 ki-ốt và 5.926.000 đồng giá trị móng nhà mà họ đã xây dựng.
“Vợ chồng tôi chỉ muốn lấy lại đất rồi sử dụng nó ra sao là do chúng tôi quyết định chứ không có nhu cầu lấy mấy ki-ốt hay cái móng nhà kia. Em gái đã tự ý xây dựng, cho thuê ki-ốt và hưởng lợi ở trên mảnh đất của tôi suốt bao năm qua, tôi không tố cáo, bắt đền hay đòi hỏi gì từ họ thì thôi. Tại sao tòa án không yêu cầu họ phải tháo dỡ hết, trả lại mặt bằng đất cho tôi mà lại bắt tôi phải lấy các công trình đó rồi có trách nhiệm tháo dỡ phần họ xây lấy chiếm trong khi tôi không hề có nhu cầu muốn lấy”, ông Ứng thở nói.
Được biết, ông Ứng là nạn nhân nhiễm chất độc da cam. Ông kết hôn muộn và sinh được hai người con trai. Trong đó người con thứ hai cũng là nạn nhân chất độc da cam. Trong suốt nhiều năm trở lại quê để đòi đất, ông phải ở nhờ trong một ngôi nhà nhỏ, đã xuống cấp ở lưng chừng đồi của một người em gái. Do vậy, mọi sinh hoạt chi tiêu trong gia đình cũng như việc chăm sóc người con thứ hai đều do một mình vợ ông đảm đương, gánh vác.
“Tha phương cầu thực nơi xứ người bao năm, tôi rất muốn được về sống trên mảnh đất của mình. Nhưng đất em gái không chịu trả, tôi không biết trông cậy vào đâu”, ông Ứng tâm sự.