Đừng dồn những thanh niên vào vòng lao lý khi chưa làm rõ được hành vi phạm tội

(PLVN) -Ngày 8/11/2021, VKSND Yên Bái ban hành cáo trạng 68/CT-VKS-P2, truy tố 14 bị can ra Toà về tội “Đưa trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông” theo Điều 288, BLHS 2015. Theo đó, VKS cáo buộc, các bị can phạm tội vì đã lập website rentcode.co và simthue.com để đưa trái phép thông tin thuê bao điện thoại lên mạng máy tính, mạng viễn thông (thường gọi là cho thuê sim online), thu lời bất chính.

Các công dân Đỗ Quốc Cường, Ngô Ngọc Chiên, Khuất Quang Huy và Ngô Tiên Quyết gửi đơn khẩn thiết đề nghị các cơ quan báo chí, các cơ quan chức năng giúp họ thoát khỏi oan trái trong một vụ án hình sự mà họ bị Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát tỉnh Yên Bái đang tiến hành. Qua đơn trình bày của những công dân có tên trên, qua Cáo trạng của Viện Kiểm sát có thể dễ dàng nhận thấy vụ việc mà các cơ quan chức năng tỉnh Yên Bái khởi tố hoàn toàn không phải là vụ án hình sự.

Với bài viết này, hy vọng rằng các cơ quan chức năng tỉnh Yên Bái sẽ xử lý vụ việc trên tinh thần thượng tôn pháp luật, trả lại công lý cho 14 thanh niên. Xin hãy hành động khi chưa muộn. Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vũng mạnh, vì nhân dân, vì công lý.

Sai lầm nếu tước đi tương lai của 14 thanh niên mới lớn khi họ không thực hiện hành vi gây hậu quả nghiêm trọng dẫn đến trách nhiệm hình sự. Số phận những thanh niên mới lớn, đang tìm cách lập nghiệp đang bị đe dọa nếu Tòa án tuyên những thành niên này có tội theo Cáo trạng số 68/CT-VKS-P2 ngày 8/11/2021của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái (Cáo trạng). Không thể để nền tư pháp của đất nước bị tổn hại, công lý bị lu mờ và nhất là những thanh niên mới lớn rơi vào vòng lao lý chỉ vì hành vi cho thuê sim điện thoại.

Thông điệp cần gửi đến các cơ quan chức năng của tỉnh Yên Bái là xin hãy vì công lý, vì thượng tôn pháp luật. Đối với những người ở trong đội ngũ điều tra, công tố và xét xử thì thượng tôn pháp luật, vô tư và nhân văn là những yếu tố quan trọng giúp người dân luôn có công lý, giúp đất nước có nền tư pháp trong sạch, vì nhân dân, không lạm dụng quyền lực để vụ lợi. Những người đang làm việc ở trong Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát hiểu rất rõ bản chất và cấu thành của tội phạm.

Câu hỏi đặt ra cho các cơ quan chức năng của tỉnh Yên Bái là hành vi của 14 thanh niên tham gia việc lập trang Web để cho thuê số điện thoại di động có phải là hành vi phạm tội không? Cáo trạng dựa trên Kết luận điều tra buộc tội những thanh niên này vi phạm Điểm a, Khoản 1, Điều 288 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 (BLHS 2015). Hành vi phạm tội là “Đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với quy định của pháp luật” căn cứ Điểm a, Khoản 2, Điều 288: Phạm tội “có tổ chức”; Điểm c, Khoản 2, Điều 288 “Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng trở lên”.

Những thanh niên trong vụ án mà các cơ quan tố tụng tỉnh Yên Bái đang tiến hành không phạm tội vì những lý do sau:

Thứ nhất, Cáo trạng buộc tội một cách mơ hồ “Đưa thông tin lên mạng” trong lúc đó chưa chứng minh được hành vi đưa thông tin lên mạng gây hậu quả gì, cho ai? cho cá nhân cụ thể nào hay lợi ích của nhà nước, trật tự xã hội. Nếu chỉ đưa thông tin lên mạng mà bị truy tố thì hầu hết những người sử dụng Zalo, Mesenger, Facebook, Tik Tok, tin nhắn đều vi phạm pháp luật. Khái niệm thông tin có nội hàm vô cùng rộng, liên quan đến hàng vạn vấn đề, đến hàng triệu người và tổ chức khác nhau vì xã hội chúng ta đang sống trong kỷ nguyên thông tin, kỷ nguyên số.

Điều 288 BLHS quy định đưa thông tin lên mạng là tội phạm nếu: a. Việc đưa thông tin trái pháp luật; b. Mua, bán, tặng cho, sửa đổi thông tin riêng của cá nhân, tổ chức khi chưa được phép; c. các hành vi sử dụng thông tin trái phép khác trên mạng.

Cáo trạng chưa xác định được những thanh niên trong vụ án đưa lên mạng thông tin gì, hành vi đó trái với quy định nào của pháp luật? Hậu quả nghiêm trọng là hậu quả gì? Trong Cáo trạng, Viện Kiểm sát dựa theo Kết luận điều tra cho rằng thông tin mà các thanh niên đưa lên mạng là số điện thoại di động, tức là thông tin cá nhân.

Hành vi đưa thông tin lên mạng được nêu trong Cáo trạng là mơ hồ và là kết quả của sự hiểu nhầm khái niệm thông tin cá nhân, đưa trái phép lên mạng và thông tin bất hợp pháp và vì thế đưa hành vi của họ vào phạm vi điều chỉnh của Điều 288 BLHS 2015.

Thứ hai, Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát đều chưa chính xác trong việc xác định số điện thoại là thông tin cá nhân. Luật Viễn thông 2009, Bộ luật dân sự 2015 đều không quy định số điện thoại di động là thông tin cá nhân. Thông tin cá nhân chỉ được quy định rất khái quát ở Khoản 15, Điều 3, Luật An toàn thông tin mạng quy định như sau: “Thông tin cá nhân là thông tin gắn với việc xác định danh tính của một người cụ thể”.

Số điện thoại di động, nhất là số di động mượn, thuê, được tặng, cho từ người khác, đặc biệt số điện thoại trên “sim rác” không thể được coi là thông tin cá nhân. Ai đã từng ra nước ngoài, sử dụng sim mua ở nước đó thì biết rõ rằng số điện thoại đó không phải là thông tin cá nhân. Thông tin cá nhân có thể bao gồm số điện thoại di động hay số điện thoại cố định, địa chỉ email, số fax nhưng đó không phải là các yếu tố bắt buộc có trong thông tin cá nhân.

Dễ nhận thấy rằng không phải ai cũng dùng điện thoại di động. Chẳng lẽ những người không sử dụng di động thì không có thông tin cá nhân. Một điểm nữa cần nhấn mạnh là có rất nhiều người sử dụng số di động của người khác, nhất là khi các cháu học online do đại dịch Covid 19. Những số điện thoại di động đó phải là thông tin cá nhân của các cháu? Của những người cho các cháu sử dụng? Tiếp nữa, những người sử dụng sim rác thì liệu số điện thoại trên đó có phải là thông tin cá nhân của họ?

Hoàn toàn không. Số điện thoại di động có thể là một chi tiết nhỏ trong thông tin cá nhân và có thể là không hề liên quan đến thông tin của cá nhân không sử dụng điện thoại di động, điện thoại cố định. Chúng ta thay số điện thoại hoặc bỏ số điện thoại di động đang sử dụng thì thông tin cá nhân của mình có bị thay đổi hay bị mất không? Hoàn toàn không?

Thứ ba, không có căn cứ để buộc tội các bị can về việc đưa thông tin cá nhân lên mạng. Cáo trạng viện dẫn khoản 5 Điều 3 Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 04 năm 2007 của Chính phủ. Việc viện dẫn khoản 5 Điều 3 Nghị định số 64/2007/NĐ-CP vào vụ việc này không đúng ít nhất ở hai khía cạnh sau: Một là Nghị định số 64/2007/NĐ-CP chỉ áp dụng đối với các cơ quan nhà nước (Điều 1 Nghị định), tức là không áp dụng với cá nhân, tổ chức không phải là cán bộ, cơ quan nhà nước.

Những người soạn Cáo trạng đã không tìm được quy định chi tiết nào trong các Luật, văn bản dưới luật về thông tin cá nhân nên đã áp dụng Nghị định 64/2007/NĐ-CP một cách thiếu phù hợp; Hai là, Cáo trạng đã hiểu sai khoản 5 Điều 3 Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về thông tin cá nhân. Khoản 5 quy định rất rõ như sau: “Thông tin cá nhân là thông tin đủ để xác định chính xác danh tính một cá nhân, bao gồm ít nhất một trong những thông tin sau đây: họ tên, ngày sinh, nghề nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số chứng minh nhân dân, số hộ chiếu.

Những thông tin thuộc bí mật cá nhân gồm có hồ sơ y tế, hồ sơ nộp thuế, số thẻ bảo hiểm xã hội, số thẻ tín dụng và những bí mật cá nhân khác”. Quy định này cho thấy số điện thoại chỉ là một yếu tố để góp phần xác định thông tin cá nhân chứ không phải là thông tin cá nhân. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, điện thoại di động do tính chất đặc thù của nó không hoàn toàn gắn với cá nhân. Quy định trên cũng không xác định rõ là điện thoại cố định hay di động. Số điện thoại cố định chắc chắn là yếu tố tin cậy hơn để giúp thêm việc xác định thông tin cá nhân nếu coi nó là chi tiết của thông tin cá nhân. Khoản 5 Điều 3 Nghị định này cho thấy tên, họ, nghề nghiệp chức danh, số điện thoại v.v không phải là thông tin bí mật của cá nhân.

Thứ tư, bản chất của hành vi lập trang web cho thuê số điện thoại di động và việc khách hàng sử dụng số điện thoại là rất khác nhau. Theo Luật Viễn Thông 2009, khi chưa bán hay chưa cho khách hàng thuê sim thì kho sim là tài nguyên viễn thông của doanh nghiệp viễn thông. Khi sim được bán cho khách thì số điện thoại trên sim đó là sở hữu của khách. Khách có quyền được sử dụng dịch vụ viễn thông mà số điện thoại trên sim có thể tạo ra trên cơ sở trả phí sử dụng dịch vụ cho doanh nghiệp viễn thông.

Số điện thoại gắn với sim này là quyền tài sản của khách hàng mua. Chủ sim bán lại cho người khác, trả lại cho doanh nghiệp viễn thông nếu chấm dứt hợp đồng sử dụng dịch vụ, hoặc bị doanh nghiệp viễn thông thu hồi do không trả phí dịch vụ theo đúng cam kết. Người thuê sim điện thoại có quyền sử dụng và khai thác số điện thoại trên sim nhằm phục vụ các nhu cầu liên lạc, thu nhận và chuyển tải thông tin.

Họ chịu trách nhiệm đối với thông tin được đưa lên mạng theo số điện thoại đó chứ không phải người cho thuê sim chịu trách nhiệm. Vì vậy, không thể coi việc cho thuê và kích hoạt của 1.508.332 số thuê bao điện thoại lên mạng máy tính, mạng viễn thông là hành vi đưa thông tin trái phép lên mạng.

Thứ năm, về bản chất, việc lập trang web để cho thuê sim cũng không khác lập trang web để quảng cáo hoặc mở tài khoản trên Youtube để kinh doanh dịch vụ mạng, nhất là thương mại điện tử. Rất nhiều hoạt động như vậy diễn ra trên môi trường mạng. Pháp luật hiện hành liệt kê một số hành vi bị cấm trong việc khai thác và sử dụng mạng di động, mạng viễn thông và nhiều thành tựu khác của các mạng công nghiệp 4.0.

Hành vi của các bị can không nằm trong số các hành vị bị cấm theo pháp luật hiện hành. Cho đến thời điểm này, chưa có vụ án hình sự hay việc xử lý hành chính nào bị truy tố hay được thực hiện đối với việc cho thuê, cho mượn, tặng sim điện thoại di động. Những thanh niên trong vụ án đã nộp thuế đầy đủ cho các khoản doanh thu, thu nhập của mình từ việc kinh doanh dịch vụ cho thuê số điện thoại di động.

Thứ sáu, Cáo trạng (Điểm 2, trang 12) quy kết các bị can 3 hành vi: (1) Đưa trái phép thông tin 1.508.332 số thuê bao điện thoại lên mạng máy tính, mạng viễn thông; (2) Cho thuê thuê bao số điện thoại; (3) Sử dụng trái phép tài nguyên viễn thông. Cáo trạng đã nhầm lẫn các hành vi được xác định rất rõ ràng trong pháp luật hiện hành. Hành vi “cho thuê thuê bao số điện thoại” và “sử dụng trái phép tài nguyên viễn thông” rõ ràng không phải là hành vi “đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái quy định pháp luật”.

Chúng không thể thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 288, BLHS 2015. Một người thuê điện thoại di động đưa thông tin trái pháp luật lên mạng thì đó là hành vi của người thuê mà không phải của người cho thuê. Như đã nêu ở trên, việc các con, cháu mượn, tặng số di động của ông, bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè mình diễn ra phổ biến trong cuộc sống. Các cháu sử dụng số điện thoại đó đưa thông tin lên mạng thì hành vi đó không phải là của người cho mượn. Trong hồ sơ vụ án và Cáo trạng chưa có chứng cứ, lập luận nào, chứng minh được việc đưa thông tin bất hợp pháp theo qui định được Cáo trạng viện dẫn.

Cáo trạng cho rằng các bị can “đưa trái phép 1.508.332 số thuê bao điện thoại lên mạng máy tính, mạng viễn thông” dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là chưa có căn cứ. Câu hỏi đặt ra là hành vi này có phải là hành vi “đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái quy định pháp luật” theo Điểm a, Khoản 1, Điều 288, BLHS 2015 không?

Trong hành vi “Đưa trái phép thông tin lên mạng máy tính, mạng viễn thông”, thông tin đưa lên có thể thông tin hợp pháp, nhưng vẫn bị cấm. Ví dụ, như hồ sơ bảo hiểm, hồ sơ y tế của cá nhân, bí mật nhà nước v.v. Việc khởi động và cho thuê 1.508.332 số thuê bao điện thoại lên mạng máy tính, mạng viễn thông mà những thanh niên này thực hiện không phải là hành vi đưa trái phép thông tin lên mạng.

Mục đích lập pháp của điểm a, khoản 1 Điều 288 BLHS năm 2015 là kiểm soát, ngăn chặn và xử lý tính bất hợp pháp của hành vi đưa thông tin chứ không phải là thông hợp pháp hay thông tin không hợp pháp. Ví dụ, đưa thông tin về hồ sơ bảo hiểm (thông tin hợp pháp) lên mạng nếu không được chủ sở hữu hồ sơ cho phép là “hành vi bất hợp pháp”. Rõ ràng là, VKS đã hiểu nhầm và áp dụng sai điểm a, Khoản 1, Điều 288, BLHS 2015 đối với hành vi của các bị can.

Các cơ quan tiến hành tố tụng của tỉnh Yên Bái cần xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố cấu thành tội phạm theo Điều 288 BLHS 2015, các yêu cầu của thủ tục tố tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015 để có quyết định chính xác về vụ án, tránh đưa vụ án ra xét xử khi có nguy cơ gây oan sai cho 14 thanh niên mà Viện Kiểm sát tỉnh đã truy tố.

Họ là những thanh niên mới lớn, tìm cách tận dụng thành tựu cách mạng công nghiệp 4.0 để mưu sinh và trưởng thành. Họ không lừa đảo, không giết người, không trộm cắp, cướp giật hay mua bán sử dụng ma túy. Những vi phạm mà nếu các cơ quan tố tụng tỉnh cáo buộc trong Cáo trạng này chỉ có thể là những vi phạm hành chính không lớn, do thiếu hiểu biết. Thậm chí, giả định về vi phạm hành chính này cũng chưa đủ căn cứ pháp luật.

“Cứu một người phúc đẳng hà sa” là điều mà cha ông chúng ta căn dặn hậu thế. Mong các cơ quan tố tụng của tỉnh Yên Bái hãy vì công lý, vì người dân mà tiến hành tố tụng đúng pháp luật trong vụ án này.

Đọc thêm