Theo hồ sơ vụ án, Phong là GĐ, người đại diện theo pháp luật của Cty CP Phát triển Y tế quốc tế. Khoảng đầu tháng 8/2020, do thấy tình hình dịch bệnh COVID-19 trong nước diễn biến phức tạp, Phong nảy sinh ý định tìm mua hàng que thử kit test COVID-19 từ Mỹ nhập khẩu về Việt Nam để bán kiếm lời.
Thông qua giới thiệu, Phong gọi điện, nhắn tin qua Zalo cho anh Nguyễn Trung Hiếu (SN 1998, GĐ Cty TNHH Đầu tư sản xuất và Phát triển Vahinves). Phong giới thiệu mình là Trưởng phòng Tổ chức BV Bạch Mai, và là GĐ Cty Y tế quốc tế.
Phong thỏa thuận đặt mua anh Hiếu 500 kit test COVID-19 của hãng Care Star Mỹ với giá 90 triệu đồng. Anh Hiếu đồng ý nhập lô hàng trên từ Mỹ về Việt Nam với điều kiện Phong phải chuyển đủ tiền nhập hàng và chịu trách nhiệm xin cấp phép nhập khẩu của Bộ Y tế để lưu hành lô hàng.
Tuy nhiên, đến ngày 5/8/2020 Phong mới chuyển cho anh Hiếu 25 triệu đồng để nhập hàng. Anh Hiếu đã chuyển cho Phong 30 kit test COVID-19 của hãng Care Star, đồng thời gửi cho Phong hình ảnh vận đơn nhập khẩu qua Zalo để Phong làm thủ tục xin cấp giấy phép nhập khẩu lưu hành số hàng trên của Bộ Y tế tại Việt Nam.
Đến ngày 14/9/2020, Phong đến TP Cần Thơ gặp anh Hiếu. Hai bên thống nhất ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh độc quyền có nội dung: Bên A và Bên B cùng nhau hợp tác kinh doanh test kit COVID-19. Tuy nhiên, sau đó Phong không chuyển tiền, đặt mua nhập hàng kit test COVID-19 trên từ Mỹ về Việt Nam cho anh Hiếu.
Phong tìm hiểu và được biết việc xin cấp giấy phép nhập khẩu của Bộ Y tế để lưu hành hàng kit test COVID-19 của Mỹ tại Việt Nam là khó, khó có thể thực hiện, nên Phong từ chối, không đặt hàng với anh Hiếu nữa.
Tuy nhiên trong thời gian tháng 8/2020, Phong đã đưa ra thông tin gian dối về việc Cty Y tế quốc tế do mình là GĐ đang nhập khẩu lô hàng kit test COVID-19 của hãng Care Star từ Mỹ về Việt Nam và làm thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu của Bộ Y tế lưu hành hàng hóa để bán; hứa hẹn sẽ trả lợi nhuận cao, để thỏa thuận ký hợp đồng và nhận tiền góp vốn hợp tác kinh doanh nhập khẩu lô hàng kit test với những người quen biết, sau đó chiếm đoạt tiền và sử dụng vào mục đích cá nhân.
Cụ thể, người đàn ông SN 1985 (ngụ quận Bắc Từ Liêm) có quen Phong và được giới thiệu về việc Cty Y tế quốc tế đang triển khai nhập lô hàng 5.000 kit test COVID-19 từ Mỹ về Việt Nam với giá nhập là 28 USD/kit test, giá bán buôn cho Trung tâm y tế, phòng khám, BV từ 45 - 50 USD/kit test, thời gian nhập hàng từ 7 - 10 ngày và bán hết lô hàng trong 10 ngày. Phong chịu trách nhiệm lo thủ tục giấy tờ cấp phép, “nhà đầu tư” chỉ cần góp vốn và hưởng lợi nhuận. Người đàn ông SN 1985 rủ bạn cùng tham gia góp 600 triệu đồng, tương đương 19% giá trị vốn góp. Phong viết giấy xác nhận “nhận đủ số tiền trên”.
Đến ngày 8/8/2020, Phong báo lô hàng đã về đến Việt Nam và đề nghị nhóm “nhà đầu tư” cho Phong vay 250 triệu đồng để lo chi phí cấp phép. Quá thời hạn thỏa thuận, nhóm “nhà đầu tư” thúc giục Phong bán lô hàng để thu hồi vốn và chia lợi nhuận thì Phong khất lần, nại lý do chưa xin được giấy phép nhập khẩu. Sau nhiều lần đòi tiền bất thành, nhóm “nhà đầu tư” tìm hiểu thì biết Phong không phải là cán bộ của BV Bạch Mai và lô hàng kia là “ảo” nên đã tố cáo hành vi của Phong ra CQĐT.
Tương tự thủ đoạn trên, Phong làm quen với người phụ nữ SN 1976 (ngụ Nghệ An) và rủ chị này góp vốn nhập lô hàng 1.000 kit test COVID-19. Khi trao đổi, Phong nói “đã tập trung hết vốn vào app bác sĩ nên không còn tiền”. Phong giới thiệu “có cậu em bên Mỹ phụ trách nhập khẩu kit test COVID-19, còn Phong phụ trách nhập khẩu và bán lô hàng tại Việt Nam; nếu góp vốn thì hưởng lợi nhuận 50% giá trị lô hàng”. Theo thỏa thuận, người phụ nữ chuyển cho Phong 250 triệu đồng. Đến hạn, Phong không trả tiền bán hàng và lợi nhuận, đồng thời gửi hình ảnh “vận đơn vận chuyển hàng hóa…” để nạn nhân tin tưởng nhưng sau đó không thực hiện cam kết.
Cho đến nay, Phong đã khắc phục toàn bộ hậu quả, trả lại tiền cho các bị hại.
Ngày 10/4, TAND Hà Nội đưa vụ án ra xét xử. Quá trình xét hỏi, do xuất hiện một số tình tiết mới chưa được làm sáng tỏ nên HĐXX quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.