Báo cáo tại cuộc họp, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Mầm non, Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Bá Minh cho biết, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển Giáo dục mầm non (GDMN), trong thời gian qua, GDMN đã nỗ lực phấn đấu và đạt được nhiều thành tựu. Mạng lưới cơ sở GDMN phát triển rộng, khắp đến tất cả các xã phường, thôn bản trên cả nước, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đưa trẻ đến trường. Hằng năm, có trên 5,1 triệu trẻ mầm non được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tại 15.256 trường mầm non và 17.444 cơ sở GDMN độc lập; tỷ lệ huy động trẻ em nhà trẻ đạt 34,6%, tỷ lệ huy động trẻ em mẫu giáo đạt 93,6%. GDMN đã từng bước vượt qua khó khăn, phát triển khá toàn diện về quy mô, mạng lưới trường lớp, các điều kiện chăm sóc, giáo dục trẻ; chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được nâng lên; trẻ em vùng miền núi, dân tộc thiểu số được chuẩn bị về tiếng Việt và được hỗ trợ ăn trưa nên tỷ lệ ra lớp cao hơn, bảo đảm chuyên cần…
Vụ trưởng Vụ Giáo dục Mầm non Nguyễn Bá Minh trình bày tại buổi thẩm định. |
Tuy nhiên, GDMN vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức lớn. Những khó khăn, thách thức cơ bản của GDMN đã được nhận diện, cụ thể như còn một số lượng khá lớn trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 4 tuổi (chủ yếu là trẻ em ở vùng khó khăn, trẻ em đối tượng yếu thế) chưa được tiếp cận với giáo dục mầm non tạo sự mất công bằng trong tiếp cận giáo dục; các điều kiện đảm bảo chất lượng GDMN còn hạn chế; chính sách hiện hành dành cho trẻ em mầm non, giáo viên, cơ sở giáo dục, cơ chế, chính sách đầu tư, xã hội hoá giáo dục còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục mầm non…
Vụ trưởng Vụ Giáo dục Mầm non Nguyễn Bá Minh nhấn mạnh, xác định rõ những khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ, cho thấy cần thiết phải sớm trình Quốc hội ban hành “Nghị quyết phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi” trong giai đoạn mới nhằm tạo hành lang pháp lý và cơ chế chính sách, giải quyết những bất cập của GDMN, thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao; đảm bảo trẻ em mẫu giáo được tiếp cận giáo dục mầm non có chất lượng; chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, ngôn ngữ và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất lượng để vào lớp một, góp phần vào thực hiện quyền của trẻ em.
Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị xây dựng Nghị quyết tập trung giải quyết các nhóm chính sách như: Hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với trẻ em mẫu giáo trong độ tuổi thực hiện phổ cập, đảm bảo tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo được huy động đến cơ sở GDMN để được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục theo Chương trình GDMN; chính sách thu hút đội ngũ, ưu đãi đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên cấp học mầm non thực hiện phổ cập giáo dục mẫu giáo; chính sách đầu tư phát triển mạng lưới trường, lớp giáo dục mầm , bổ sung cơ chế, chính sách phát triển mạng lưới trường lớp đáp ứng nhu cầu tới trường của trẻ em mẫu giáo.
Góp ý tại cuộc họp thẩm định, ông Thiều Đức Dũng, đại diện Văn phòng Quốc hội cho biết, có 2 nguồn kinh phí thực hiện các chính sách gồm: ngân sách nhà nước theo phân cấp ngân sách hiện hành và nguồn vốn xã hội hoá giáo dục, các nguồn vốn huy động hợp pháp khác. Tuy nhiên, cơ quan chủ trì soạn thảo cần làm rõ những nội dung nào thuộc trách nhiệm đầu tư của nhà nước, nội dung nào sẽ huy động các nguồn vốn xã hội hoá; đồng thời tham khảo, lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương để đảm bảo phù hợp với cơ cấu ngân sách, điều kiện của từng vùng miền và bối cảnh mới của đất nước.
Ông Thiều Đức Dũng, đại diện Văn phòng Quốc hội góp ý. |
Ông Thiều Đức Dũng nêu rõ, một trong những khó khăn hiện nay là tình trạng thiếu giáo viên mầm non tại các tỉnh thành. Để giải quyết tình trạng này, theo đồng chí, bên cạnh những chính sách hỗ trợ ngắn hạn, cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu, đề xuất thêm các chính sách lâu dài như thu hút người học vào ngành sư phạm mầm non; ưu đãi về tuyển dụng, đãi ngộ, tôn vinh GVMN… Đồng thời, đồng chí đề nghị cơ quan chủ trì quan tâm, đề xuất giải pháp để khắc phục tình trạng thiếu trường, lớp ở các đô thị lớn và các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Cùng với đó, bà Phạm Thị Thùy, đại diện Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội nhất trí về sự cần thiết của phổ cập GDMN cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi, nâng cao tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo được tiếp cận GDMN, bảo đảm hầu hết trẻ em mẫu giáo ở mọi vùng, miền tại các tỉnh, thành phố được đến lớp để thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục theo chương trình GDMN nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, ngôn ngữ và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất lượng để trẻ em vào lớp một.
Tuy nhiên, theo bà Phạm Thị Thùy, hồ sơ lập đề nghị xây dựng Nghị quyết phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi cần bảo đảm theo quy định tại Điều 59, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đồng thời, bảo đảm sự thống nhất, thống nhất về phạm vi điều chỉnh, đối tượng giữa Nghị quyết với các Nghị quyết, chương trình giáo dục liên quan đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng; rà soát, bảo đảm sự thống nhất các nội dung về miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập giữa Nghị quyết với các quy định tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
Các đại biểu góp ý tại buổi thẩm định. |
Tại buổi thẩm định, các đại biểu cho rằng việc phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn dự báo sẽ khó thành công cũng như giữ kết quả phổ cập trong giai đoạn sau, vì đặc điểm kinh tế -xã hội, dân cư của vùng này có tính đặc thù, các hộ gia đình thường nhà ở xa điểm trường, lớp học; đường xá, phương tiện giao thông đi lại còn nhiều khó khăn, không có phương tiện đưa đón… để thực hiện thành công việc phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3 đến 5 tuổi cần có thêm chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo có trẻ từ 3 đến 5 tuổi, duy trì liên tục cho việc đưa trẻ đến trường, đến lớp học tập hiệu quả; trong quá trình triển khai thực hiện nên phân cấp cho địa phương để đảm bảo sát thực với tình hình thực tế.
Về nội dung chính sách hỗ trợ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên mầm non thực hiện phổ cập giáo dục mầm non không nên cào bằng giữa các địa bàn, khu vực vì điều kiện kinh tế - xã hội ở các xã thuộc các khu vực có sự khác biệt rất rõ rệt. Chính sách nên có định mức hỗ trợ khác nhau theo từng địa bàn, khu vực, tạo điều kiện thu hút, động viên đội ngũ giáo viên mầm non yên tâm công tác và luôn nỗ lực quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ phổ cập. Bên cạnh đó, bổ sung, làm rõ các giải pháp huy động các nguồn lực để thực hiện phổ cập, đặc biệt là giải pháp về số lượng người làm việc (đội ngũ giáo viên); đánh giá kỹ tác động và tính khả thi của các giải pháp…