Hoàng Tăng Bí – Vị Phó bảng cả cuộc đời yêu nước thương dân

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Cụ Hoàng Tăng Bí (1883-1939), quê ở làng Đông Ngạc, phủ Hoài Đức (nay là phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội). Cụ đã góp phần quan trọng vào việc sáng lập trường Đông kinh Nghĩa thục, tổ chức hoạt động phong trào duy tân ở Hà Nội đầu thế kỷ XX, đổi mới và hội nhập văn hoá thế giới trên cơ sở giữ vững quốc hồn dân tộc, chấn hưng kinh tế làm cho dân giàu nước mạnh...
Đền thờ Phó bảng Hoàng Tăng Bí.
Đền thờ Phó bảng Hoàng Tăng Bí.

Cả cuộc đời vì nước vì dân

Sinh trưởng trong gia tộc họ có truyền thống hiếu học, yêu nước, Cụ Hoàng Tăng Bí sớm đi theo tiếng gọi cứu nước cứu dân. Năm 1906, Cụ đỗ Cử nhân, đây cũng là lúc ngọn gió canh tân từ Nhật Bản, Trung Quốc thổi vào Hà Thành. Những tân văn, tân thư của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu - bạn “đồng văn đồng chủng” bay sang đất nước Việt đau thương sau bao cuộc khởi nghĩa thất bại đã cổ vũ, thúc giục các sĩ phu yêu nước tìm đến con đường duy tân để cứu nước.

Đầu năm 1907, trường  Đông kinh Nghĩa  Thục đã được thành lập ngay tại số 4 Hàng Đào - nhà của cụ Cử Lương Văn Can để khai  trí cho dân, mở lớp dạy học không lấy tiền, tổ chức diễn thuyết, cổ động trong nhân dân. Trường do cụ Lương Văn Can làm Thục trưởng, cụ Nguyễn Quyền làm Giám học. Cụ Hoàng Tăng Bí tham gia cả Ban giáo dục, dạy Hán văn và Ban cổ động của Đông Kinh Nghĩa Thục.

Nhiệt tâm dạy học xoá nạn mù chữ cho người dân từ ngõ phố đến thôn quê, chỉ trong một thời gian ngắn, ĐKNT đã mở được bốn phân hiệu ở Hà Đông và Sơn Tây. Riêng phân hiệu ở Chèm Vẽ, Hoàng Tăng Bí trực tiếp chỉ đạo, Tú tài Nguyễn Hữu Tiến, Thủ khoa Nguyễn Châu Đỉnh, hai anh em Phan Tuấn Phong, Phan Trọng Kiên  tổ  chức.

Không chỉ giảng dạy khắp các vùng Chèm Vẽ, Hà Đông, Hoàng Tăng Bí còn đi diễn thuyết, cổ động cho tư tưởng duy tân, học vấn đi đôi thực nghiệp, kinh doanh, mở mang công thương, nhưng phải lấy chữ Tín làm đầu, làm cho dân giàu nước mạnh. Những diễn giả Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, được công chúng hâm mộ và nổi tiếng về tài diễn thuyết đi vào lòng người. Vì vậy thơ khuyết danh mới có câu: “Buổi diễn thuyết người đông như hội/ Kỳ bình văn khách đến như mưa”.

Để làm gương cho dân chúng trong hoạt động thương mại và gây quỹ hoạt động cho nhà trường, Hoàng Tăng Bí cùng các sĩ phu hùn vốn mở Công ty Đông Thành Xương ở phố Hàng Gai. Đó cũng chính là tư gia của ông ngoại - cụ Nguyễn Trọng Hiệp. Công ty chuyên buôn bán hàng nội và mở xưởng dệt xuyến hoa, làm  trà ướp…

Kính phục Hoàng Tăng Bí và các sĩ phu, trong diễn ca “Nam Thiên phong vận”, nhân dân ca ngợi các cụ: “Xã Đông Ngạc Hoàng quân Tăng Bí/ Tánh thông minh tuổi trẻ khác thường/ Tướng môn dòng dõi họ Hoàng/Á môn giá cũng xem thường nhẹ không/ Đêm ngày dốc một lòng vì nước/ Đông Thành Xương đứng trước ra buôn… Cho hay những bậc tài danh/ Vì giang sơn phải dấn mình bước ra”. 

Phó bảng Hoàng Tăng Bí từng tham gia phong trào yêu nước Đông Kinh Nghĩa Thục.
 Phó bảng Hoàng Tăng Bí từng tham gia phong trào yêu nước Đông Kinh Nghĩa Thục. 

Những hoạt động yêu nước của Đông Kinh Nghĩa Thục và vụ đầu độc để giết lính Pháp trong Thành Hà Nội (1908) làm cho thực dân Pháp kinh hoàng. Chúng gọi đó là “cái lò phiến loạn ở Bắc Kỳ”, bắt đóng cửa trường và công ty của các sĩ phu hoạt động cho Đông Kinh Nghĩa Thục.

Tháng 10/1908, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Vũ Hoành bị kết án khổ sai chung thân, Dương Bá Trạc 15 năm tù; Hoàng Tăng Bí bị kết án 5 năm khổ sai đưa đi Côn Đảo. Nhờ có nhạc phụ là Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục can thiệp và bảo lãnh, sau một năm ở Hỏa Lò, cụ bị đưa đi quản thúc tại Huế 15 năm. Người vợ hiền là Cao Thị Thuyên thay ông nuôi dạy các con là Hoàng Minh Bàn, Hoàng Minh Giám, Hoàng Luyện Thiết, Hoàng Dụng Huyên thành tài.

Nặng lòng với đất nước

Trong thời gian  phải ở Huế đằng đẵng 15 năm, biến cái rủi thành cái may, cụ dùi mài kinh sử đi thi và đỗ Phó bảng năm 1910. Cũng trong thời gian này, cụ còn viết ba vở tuồng: Đệ bát tài tử Hoa Tiên ký, nhà in Mạc Đình Tư xuất bản năm 1913; Nghĩa nặng tình sâu (tuồng Mị Châu Trọng Thủy)  nhà in Nghiêm Hàm xuất bản năm 1926; Thù chồng nợ tước (tuồng Trưng Trắc Trưng Nhị), nhà in Tân Dân xuất bản năm 1927. Là một nhà nho, nhưng cụ  mượn thể loại nghệ thuật tuồng mang tính ước lệ, bi thiết cao để thể hiện được bao nỗi hoài vọng, bi phẫn của mình.

Sau 15 năm bị quản thúc ở Huế, năm 1929, Hoàng Tăng Bí như chim bay về tổ ấm quê hương, gia  đình… Nhiệt thành yêu nước, cụ trở lại  với  nghề  dạy học xưa, dạy Việt văn ở trường Gia Long nhưng thực dân Pháp biết tiếng cụ đã cấm không cho dạy. Cụ cộng tác với báo Trung Bắc tân văn, viết nhiều bài sâu sắc về đạo đức, nhân cách của người cầm bút trong thời đại Âu hóa với quan niệm tiến bộ của người trọng Lễ Nghĩa Trí Tín.

Ngoài ra, cụ còn dịch một số tác phẩm của văn học Pháp như Paul et Virgine; La chaumière indienne của Bernadin de Saint Pierre; Le comte de Monte Cristo của Alexandre Dumas, nhưng không có điều kiện xuất bản. Đặc biệt, cụ đã nghiên cứu và viết cuốn Lược khảo Lịch sử Trung Quốc, lấy bút danh Tiểu Mai, mong người nước Nam soi vào gương thành bại của họ để cứu nước.

Chí khí và lòng yêu nước của cụ đã ảnh hưởng lớn đến con trai - Giáo sư Hoàng Minh Giám từ thuở thiếu thời. Trong khi cụ Hoàng Tăng Bí còn bị quản thúc ở Huế thì ông Hoàng Minh Giám đã hoạt động trong phong trào yêu nước và dân chủ của thanh niên, viết cho báo Tiếng chuông rè của Nguyễn An Ninh, Người nhà quê của Nguyễn Khánh Toàn, Nước  Nam mới của Phan Văn Trường.

Trở về Hà Nội năm 1929, cụ không chỉ hoạt động văn hoá mà còn là trụ cột vững chắc cho tư tưởng và hành động của ông Hoàng Minh Giám khi quyết định mở trường tư thục Thăng Long năm 1935. Trong lễ kỷ niệm 65 năm ngày thành lập trường, giáo sư Hoàng Minh Giám đã viết: “Trong thâm tâm  của anh em chúng tôi, cái danh từ nền tư thục gợi nhớ đến Đông kinh Nghĩa thục… Chúng tôi thầm nghĩ trường Thăng Long phải xứng đáng là một nghĩa thục theo gương Đông kinh Nghĩa thục nhưng phải khôn khéo để có thể tồn tại lâu dài”. 

Nối nghiệp Đông kinh Nghĩa thục trong hoàn cảnh mới, các giáo sư Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám… đã đào luyện hàng nghìn học trò yêu nước đi theo con đường cách mạng. Cụ Hoàng Tăng Bí hài lòng và hạnh phúc vì đã có người con nối chí nối nghiệp xuất sắc, giúp dân cứu nước, an lòng về với tổ tiên họ Hoàng ở quê hương Đông Ngạc năm 1939.

Trải qua gần một thế kỷ, vẫn còn nguyên trong khuôn viên khu nhà thờ tổ - tính từ cụ tổ của chi họ thứ ba là Hoàng Tướng Hiệp - ông nội cụ Hoàng Tăng Bí, bức hoành phi lớn đã được sơn son thếp vàng, sắc phong vua ban trang trọng đặt trong bàn thờ tổ.

Từ mảnh đất Đông Ngạc khoa bảng và hưởng  phúc ấm tổ tiên, con cháu cụ Phó bảng Hoàng Tăng Bí đã nối nghiệp ông cha, đóng góp cho dòng tộc, quê hương, đất nước như: GS Hoàng Minh Giám, Cô giáo hiệu trưởng trường cấp I Thăng Long Hoàng Diệu Uyển, GS-TS Hoàng Vĩnh Giang, GS-TS Hoàng Thuỷ Nguyên, GS-TS Hoàng Thuỷ Long… Một đường phố của Thăng Long ngàn năm được đặt tên Phố Hoàng Tăng Bí là thể hiện sự tri ân thành kính với sĩ phu, nhà văn hoá Hoàng Tăng Bí (Thành phố Hồ Chí Minh đã có đường phố mang tên cụ Phó bảng ở quận 12).

Đọc thêm