Lo ngại sự đồng hóa các dân tộc
Hiện, nước ta có 5 dân tộc thiểu số có số dân rất ít người bao gồm các dân tộc: Si La, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo (dưới 1.000 người). Các dân tộc có số dân dưới 1.000 người sống tập trung ở vùng núi cao, biên giới thuộc các tỉnh Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An, Kon Tum. Các dân tộc này cư trú chủ yếu ở nơi điều kiện cuộc sống còn khó khăn, giao thông đi lại không thuận tiện, tỷ lệ hộ thuộc diện đói nghèo tương đối cao, nên khả năng tự bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống của đồng bào rất hạn chế, có dân tộc ngay cả tiếng nói, chữ viết, trang phục… cũng bị mai một, thậm chí bị mất hẳn. Có dân tộc đã không còn tồn tại mô hình cư trú, làng bản truyền thống. Trong quá trình tiếp xúc, giao lưu với các dân tộc khác, những đặc trưng văn hoá của họ có sự pha trộn, giao thoa, mai một và có xu hướng bị đồng hoá.
Người Si La chưa có chữ viết riêng,những lễ nghi trong lễ hội đang mờ nhạt dần trong đời sống của dân tộc này. Người Si La có phong tục đàn ông nhuộm răng đỏ, đàn bà nhuộm răng đen. Tuy nhiên, hiện nay đa số người Si La để răng trắng. Ông Pờ Chà Nga, đại diện dân tộc Sila cho rằng, với số dân còn dưới 1.000 người, trong điều kiện xã hội phát triển nhanh như hiện nay, dân tộc Si La rất dễ bị đồng hóa, mất dần tiếng nói mẹ đẻ. Đa số các trẻ em dân tộc Si La giờ không biết và cũng không thích hát bài dân ca Si La, không thích mặc trang phục Si La, không biết múa điệu múa Si La…
Một già làng ở Hà Giang bày tỏ: “Chúng tôi là người Pu Péo, nhưng chẳng có mấy người biết viết và nói tiếng Pu Péo, đại đa số đều dùng tiếng Mông để giao tiếp. Có dùng tiếng Pu Péo chăng cũng chỉ trong dịp lễ Tết, cúng bái”.
Những già làng, trưởng bản là “linh hồn” níu giữ bản sắc dân tộc nhưng đôi khi chính họ lại là người “ngược dòng”. Có cuộc giao lưu đồng bào thiểu số, nhưng nhiều già làng ăn mặc comple cà-vạt, nữ mặc quần tây, váy ngắn như người Kinh. Nếu chính đồng bào không thấy tự hào, tự tôn về bản sắc văn hóa của mình, không có ý thức gìn giữ nó mọi nơi mọi lúc, không đem nó giới thiệu rộng rãi với các cộng đồng đó thì văn hóa sẽ biến mất ngay từ trong chính cộng đồng sáng tạo ra nó.
Bảo tồn chưa theo kịp tốc độ mai một
Nhà nước đã có hệ thống các chính sách riêng dành cho từng dân tộc. Nhưng hầu hết các chính sách này thường tập trung vào phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất mà thiếu lồng ghép với các đề án về bảo tồn và phát triển văn hóa của các dân tộc. Và các chính sách, đề án về văn hóa, văn hoá các dân tộc thiểu số nói chung vẫn thường đứng biệt lập, ít gắn kết với các chương trình, đề án phát triển về kinh tế, bảo vệ môi trường... nên hiệu quả chưa cao. Tốc độ bảo tồn bản sắc văn hoá của 5 dân tộc rất ít người: Brâu, Rơ Măm, Pu Péo, Si La, Ơ Đu vẫn chưa theo kịp với tốc độ mai một.
Tính từ năm 2006 đến nay đã có 6 đợt học tiếng Ơ Đu bằng hình thức truyền miệng được mở ở bản Văng Môn, xã Nga My, huyện Tương Dương (Nghệ An) cho hơn 300 người. Nhưng với vốn từ ngữ sưu tầm quá ít ỏi- khoảng 200 từ- do những người già ghi chép lại rất rời rạc, thiếu sự hoàn chỉnh, nên rất khó để truyền khẩu. Mỗi đợt giảng dạy chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, bởi vậy vốn từ để người tham gia sau khi hoàn thành khóa học không đủ để nhớ và sử dụng hàng ngày, học rồi lâu dần không sử dụng lại quên mất.
Khó khăn trong tài chính, ngân sách là khó khăn chung của tất cả các dân tộc thiểu số trong việc gìn giữ, bảo tồn văn hóa. Mỗi năm, số tiền đầu tư cho các hoạt động văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh đều rất thấp, có tỉnh chỉ dành 15 ngàn đồng/1 đầu người/ 1 năm cho các hoạt động văn hóa. Với chừng ấy tiền thì không thể làm gì được. Mà người dân thì không có mấy điều kiện để đóng góp khi đời sống còn khó khăn.
Hơn ai hết, các già làng, trưởng bản, các nghệ nhân mong được nhà nước hỗ trợ hơn nữa trong việc cải thiện đời sống tinh thần và giúp họ gìn giữ cũng như bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Nếu không nhanh, những luật tục thú vị và bản sắc độc đáo về văn hóa của các dân tộc chỉ còn thấp thoáng qua từng trang sách và biến mất dần qua dòng thời gian đầy biến đổi và khắc nghiệt...