Một vụ tranh chấp hợp đồng tại Gia Lai: Có dấu hiệu vi phạm tố tụng nghiêm trọng

(PLO) - Trước khi hợp đồng mua bán có hiệu lực, bên mua đã tiến hành khảo sát thực tế về dây chuyền, thiết bị và công nghệ. Sau khi đã kiểm tra kỹ, bàn giao máy móc và vận hành thì bên mua lại cho rằng bên bán bàn giao thiết bị không đạt yêu cầu. 

Còn trong quá trình xét xử vụ án, tòa cấp sơ thẩm  chấp nhận cho bên mua thay đổi nội dung khởi kiện“bằng miệng” và tuyên hợp đồng vô hiệu theo yêu cầu này của bên mua.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Nhiều dấu hiệu lật lọng

Ngày 17/09/2014, Cty Cổ phần Long Phương Thịnh (Cty Long Phương Thịnh, trụ ở tại Tân Kim, Cần Giuộc, Long An)  và Cty TNHH TM-SX Ngô Minh Thái (Cty Ngô Minh Thái, trụ sở TP Pleiku, Gia Lai) Thái) ký Hợp đồng (HĐ) mua bán thiết bị số 1709/2014/LPT-NMT. Theo đó, phía Cty Long Phương Thịnh bán cho Cty Ngô Minh Thái thiết bị thuộc dây chuyền máy ép viên gỗ 8mm từ mùn cưa đã sấy với giá 3.601.400.000đ.

Cty N.M.Thái đã thanh toán 90% giá trị HĐ sau khi ký và đã được Cty Long Phương Thịnh lắp đặt, hướng dẫn vận hành. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành để nghiệm thu, hai bên phát sinh mâu thuẫn, không đi đến thống nhất và thanh toán 10% giá trị HĐ còn lại. Cty Ngô Minh Thái cho rằng, Cty Long Phương Thịnh đã vi phạm nghiêm trọng HĐ, có hành vi trốn thuế, cung cấp máy không đúng nguồn gốc xuất xứ, không cung cấp tài liệu kỹ thuật liên quan đến thiết bị... khiến Cty Ngô Minh Thái thiệt hại lớn về kinh tế, các HĐ cung cấp sản phẩm đến các đối tác phải hủy; chịu tổn thất lớn vì phải tốn tiền thuê nhân công, kho xưởng, cam kết sử dụng điện…

Cty Ngô Minh Thái đã khởi kiện Cty Long Phương ra TAND TP Pleiku, yêu cầu hủy bỏ toàn bộ HĐ số 1709, buộc Cty L.P.Thịnh phải nhận lại toàn bộ máy móc, hoàn trả lại tiền và đền bù 383.000.000đ tiền lãi.

Vi phạm tố tụng? 

TAND TP Pleiku cho rằng: “HĐ các bên đã giao kết không chứng minh được đã có thỏa thuận rõ ràng, chi tiết với nhau về HĐ là tài sản được giao; giữa hai bên không có thói quen được thiết lập…”. Do đó, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyên bố HĐ số 1709 vô hiệu và xử lý hậu quả pháp lý của HĐ vô hiệu…

Điều đáng nói là, Cty Ngô Minh Thái cho rằng Cty Long Phương Thịnh cung cấp thiết bị không đúng như HĐ, nhưng HĐ ghi rõ “sau khi bên mua đã vận chuyển và tập kết đầy đủ (phí vận chuyển do bên mua chịu) bên bán sẽ lắp ráp, vận hành và nghiệm thu thiết bị. Cty Ngô Minh Thái chịu trách nhiệm trong việc kiểm tra, vận chuyển và tập kết máy móc.

Như vậy, nếu Cty Ngô Minh Thái cho rằng mình mua máy Hà Lan nhưng nhận được máy Việt Nam thì tại sao trong quá trình bàn giao lắp ráp và vận hành lại không có bất kỳ phản ứng nào, mà vẫn tiếp nhận máy để sản xuất?

Về nội dung tố cáo Cty Long Phương Thịnh trốn thuế, vi phạm HĐ về chuyển giao công nghệ, không cung cấp tài liệu sách hướng dẫn thì tại phiên tòa, Cty Long Phương Thịnh đã cung cấp đầy đủ hóa đơn của Chi cục Thuế tỉnh Long An chứng minh mình không trốn thuế. Hơn nữa, chỉ đến khi hai bên hoàn thành biên bản nghiệm thu mới có nghĩa vụ phải cung cấp hóa đơn, tài liệu máy móc, sách hướng dẫn cho phía Cty Ngô Minh Thái.

Về việc sản phẩm không đạt chất lượng và năng suất thì đại diện Cty Long Phương Thịnh cho rằng bên nguyên đơn sử dụng nguyên liệu đầu vào là gỗ dăm và mùn cưa thô với độ ẩm khác nhau.

Cty Ngô Minh Thái cho rằng máy không hoạt động được nhưng theo hóa đơn từ Chi cục Thuế tỉnh Gia Lai thì từ thời điểm nhận máy cho đến khi tòa xét xử vụ án, Cty này đã bán cho rất nhiều đối tác viên ép thành phẩm với giá trị các HĐ lên tới hơn 2,2 tỉ đồng. Điện năng sử dụng từ quý I/2015 đến quý IV/2016 lên tới hơn 497 triệu đồng…

Điều này cũng được thể hiện trong biên bản thẩm định tại chỗ của HĐXX là máy vẫn hoạt động bình thường, các bộ phận chính nhìn bề ngoài đã cũ, một số bộ phận không nhìn thấy rõ model nhà sản xuất, thông số kỹ thuật chính do nhãn mác không có hoặc bị mờ…”. Như vậy, nếu máy không hoạt động và Cty Ngô Minh Thái không sử dụng máy thì tại sao các bộ phận máy lại có hiện trạng như thế?”-  đại diện Cty Long Phương Thịnh bức xúc.

Vậy nhưng, HĐXX vẫn đồng ý cho nguyên đơn thay đổi nội dung khởi kiện từ việc hủy bỏ HĐ sang tuyên HĐ vô hiệu. Điều này đồng nghĩa với việc Cty Long Phương Thịnh phải hoàn trả cho Cty Ngô Minh Thái 2.947.000.000đ, đồng thời nhận lại toàn bộ máy móc thiết bị trước đó đã bàn giao cho Cty Ngô Minh Thái.

Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Thanh Hảo - Phó Chánh án phụ trách TAND tỉnh Gia Lai cho biết, phiên xử sơ thẩm đã kết thúc nhưng nếu có sai sót về thủ tục tố tụng cũng như hồ sơ chứng cứ thì TAND tỉnh sẽ nghiêm túc xem xét lại để xét xử một cách khách quan nhất… 

“Hủy” và “vô hiệu” là hai cách giải quyết hoàn khác nhau

Luật sư Hồ Nguyên Lễ (Giám đốc Công ty Luật Tín Nghĩa) cho rằng: Cty Ngô Minh Thái cho rằng Cty Long Phương Thịnh vi phạm HĐ số 1709 nên yêu cầu tòa hủy HĐ. Để có quyền khởi kiện, bên nguyên phải xác định có xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận và phải thông báo ngay cho Cty Long Phương .Thịnh biết về việc tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ HĐ trước khi khởi kiện mới được tòa án thụ lý giải quyết. Việc xử lý hủy HĐ được áp dụng theo Điều 314 Luật Thương mại năm 2005. 

Căn cứ Điều 244 BLTTDS năm 2015 qui định: HĐXX chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu. Tại phiên tòa Cty Ngô Minh Thái thay đổi yêu cầu khởi kiện từ “hủy HĐ” thành “tuyên HĐ vô hiệu” nhưng không nêu rõ lý do vô hiệu theo điều khoản pháp luật nào? Theo qui định, xử lý HĐ vô hiệu được áp theo Điều 137 BLDS năm 2005. Việc yêu cầu hủy HĐ thương mại được giải quyết và xử lý hậu quả theo Luật Thương mại, còn yêu cầu vô hiệu HĐ được giải quyết và xử lý hậu quả theo BLDS là hai cách giải quyết vụ án khác nhau, do đó cần phải hòa giải trước khi xét xử. 

Như vậy, Cty Ngô Minh Thái thay đổi yêu cầu khởi kiện tại phiên toà từ “hủy HĐ” thành yêu cầu tuyên “HĐ vô hiệu” là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu nhưng vẫn được tòa án chấp nhận rồi xét xử ngay là vi phạm nghiêm trọng tố tụng  Điều 244 BLTTDS năm 2015.

Mặt khác, tòa nhận định HĐ vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được theo Điều 411 BLDS năm 2005 là chưa đúng với thực tế khách quan của vụ án. Bởi, hai bên đã giao dịch, làm việc, trao đổi nhiều lần mới đi đến ký kết HĐ. Hai bên đều nhận thức rõ về đối tượng mua bán chắc chắn thực hiện được nên mới giao kết HĐ. Việc HĐ có nội dung chưa rõ là do thiếu sót và lỗi của cả hai bên khi ký kết và có thể khắc phục được bằng phụ lục HĐ.

Đọc thêm