Chưa kể, hai bên tranh chấp hợp đồng ủy thác xuất khẩu chè nhưng TAND huyện Mộc Châu lại xác định “nhầm” là tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại và “đổ lỗi” hoàn toàn cho Cty Chè Mộc Châu khiến doanh nghiệp bị thiệt hại nghiêm trọng. Vì các lẽ trên, Cty Chè Mộc Châu đề nghị cấp phúc thẩm xử hủy án sơ thẩm, đình chỉ vụ án.
Hợp đồng đang có hiệu lực, vẫn bị Tòa thụ lý, xét xử!
Trong đơn đơn kêu cứu gửi tới báo chí và các cơ quan tư pháp Trung ương, ông Nguyễn Kim Huynh - người đại diện theo ủy quyền của Cty CP Chè Cờ Đỏ Mộc Châu tham gia tố tụng để giải quyết tranh chấp với Cty CP XNK Trà Việt đã chỉ ra hàng loạt sai phạm cả về nội dung lẫn tố tụng của Bản án sơ thẩm số 02 ngày 23/5/2017 của TAND huyện Mộc Châu.
Theo nội dung vụ việc, ngày 15/4/2016 Cty Chè Mộc Châu (Bên A) và Cty Trà Việt (Bên B) ký kết Hợp đồng ủy thác xuất khẩu số 01 (HĐ 01). Theo đó, từ 15/4/2016 đến 31/12/2016, Cty chè Mộc Châu ủy thác cho Cty Trà Việt thực hiện việc xuất khẩu 300.000kg chè, đơn giá 47 ngàn đồng/kg (tổng giá trị 14,1 tỷ đồng). Mức phí ủy thác là 1,5% giá trị hàng xuất. Theo cam kết, bên nào vi phạm HĐ mà không có lý do chính đáng thì bị phạt tối đa 10% giá trị HĐ.
Quá trình thực hiện, từ 18/4 đến 15/5/2016 Cty Chè Mộc Châu đã chuyển hàng cho Cty Trà Việt tổng khối lượng 40.360kg (trị giá 1.896.920 đồng). Theo Điều 4 và 5 HĐ, trước một lần chuyển chè, Cty Trà Việt phải chuyển khoản cho Cty Chè Mộc Châu số tiền tương đương 100% giá trị lô hàng để đặt cọc cho số hàng sẽ nhận. HĐ ghi rõ: Việc Bên B thanh toán 100% giá trị theo từng lô hàng là để bảo đảm cho số hàng nhận từ Bên A không bị Bên B chiếm dụng vốn sau khi đã xuất bán cho đối tác nước ngoài chứ không phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong giao dịch mua bán. HĐ cũng ghi rõ mức giá chè có thể điều chỉnh theo biến động thị trường.
Sau đó, Cty Mộc Châu có thông báo sẽ nâng mức giá bán lên 53 ngàn đồng/kg nhưng không nhận được bất kỳ động thái phản hồi nào từ phía Cty Trà Việt. Theo Điều 4,5 HĐ 01, Cty Trà Việt phải là bên chủ động liên hệ và chuyển tiền trước mỗi lần giao dịch thì Cty Chè Mộc Châu mới có căn cứ để giao hàng.
“Chúng tôi vẫn chờ đợi hồi đáp của Cty Trà Việt vì vẫn đang trong thời hạn HĐ, nhưng do không nhận được liên hệ từ Bên B nên đương nhiên chúng tôi không thể giao hàng được”- bà Lê Thu Hồng đại diện bị đơn cho biết.
Ngày 07/11/2016, Cty Trà Việt bỗng khởi kiện Cty Chè Mộc Châu ra TAND huyện Mộc Châu (Sơn La). Điều này khiến Cty Chè Mộc Châu hết sức bất bình vì HĐ 01 vẫn đang trong thời hạn thực hiện, thậm chí Bên B vẫn đang chờ liên hệ, chuyển khoản từ phía Bên A để tiếp tục chuyển hàng thực hiện tiếp HĐ. Bất bình hơn, vụ việc đã được TAND huyện Mộc Châu “bí mật” thụ lý, giải quyết nhưng Tòa lại không tống đạt thông báo thụ lý và ghi ý kiến của bị đơn - Cty Chè Mộc Châu là vi phạm tố tụng.
“HĐ 01 chỉ quy định đến 31/12/2016 mới hết hạn mà không nói rõ thời điểm cụ thể nào thì Bên B phải giao lượng hàng cụ thể là bao nhiêu. Do đó, trên nguyên tắc đến ngày 31/12/2016, Bên B mới giao nốt số hàng còn lại cho Bên A cũng không vi phạm. “Tôi cho rằng việc TAND huyện Mộc Châu thụ lý đơn kiện và giải quyết vụ án khi vẫn đang trong thời hạn HĐ là trái nguyên tắc tố tụng vì chưa phát sinh tranh chấp, chưa xảy ra thiệt hại, lúc này thẩm quyền khởi kiện của Bên A chưa phát sinh”- ông Nguyễn Kim Huynh bức xúc phát biểu.
Bên cạnh đó, việc TAND huyện Mộc Châu thụ lý, giải quyết vụ kiện còn không đúng thẩm quyền tố tụng. Tại Điều 10, khoản 10.2 của HĐ 01, hai bên thỏa thuận lựa chọn Tòa Kinh tế TAND TP Hà Nội là Tòa án giải quyết tranh chấp (nếu có). Ngoài ra, hai bên không thỏa thuận lại cơ quan Tòa án nào giải quyết tranh chấp, thế nên việc Cty Trà Việt khởi kiện Cty Chè Mộc Châu ra TAND huyện Mộc Châu (tỉnh Sơn La) và được Tòa án này thụ lý giải quyết là không đúng thẩm quyền tố tụng.
Tranh chấp Hợp đồng ủy thác, Tòa “đè” ra xử Hợp đồng mua bán
Trong vụ án này, giữa Cty Chè Mộc Châu và Cty Trà Việt tồn tại hai HĐ: Đó là HĐ gia công hàng hóa và HĐ ủy thác xuất khẩu.
Trong HĐ 01 ghi rõ: Theo đó, Cty Chè Mộc Châu ủy thác cho Cty Trà Việt thực hiện việc xuất khẩu 300.000kg chè, với tổng giá trị là 14,1 tỷ đồng; mức phí ủy thác là 1,5% giá trị hàng xuất tính trên cơ sở giá trị 14,1 tỷ đồng của toàn bộ lô hàng. Thực tế, phía Cty Mộc Châu chịu hoàn toàn chi phí chuyên chở hàng đến kho cho Cty Trà Việt gia công đóng gói, sau khi hoàn tất Cty Mộc Châu lại chịu trách nhiệm chở hàng đến cảng để xuất khẩu, làm các thủ tục hải quan, đóng các loại phí nâng hạ container…
Thực tế Bản HĐ 01 ngày 15/4/2016 đã ghi rõ đây là HĐ ủy thác xuất khẩu hàng hóa (chứ không phải HĐ mua bán); và Cty Trà Việt khởi kiện Cty Chè Mộc Châu là khởi kiện tranh chấp HĐ ủy thác xuất khẩu. Giá trị của HĐ ủy thác xuất khẩu mà hai bên ký ngày 15/4/2016 chỉ là 211,5 triệu đồng (trị giá 1,5% giá trị lô hàng 14,1 tỷ đồng) chứ không phải là 14,1 tỷ đồng như TAND huyện Mộc Châu đã “bé cái nhầm”. Theo cam kết của hai bên tại HĐ 01 thì bên nào vi phạm sẽ chỉ bị phạt tối đa 10% giá trị HĐ- nghĩa là phạt tối đa 10% của giá trị HĐ ủy thác là 211,5 triệu đồng.
“Tại phiên tòa sơ thẩm chúng tôi đã trình bày rõ ràng tất cả các vấn đề này nhưng có vẻ như TAND huyện Mộc Châu vẫn cố tình “nhầm lẫn”, đổ tất cả lỗi cho Cty chúng tôi và tuyên chúng tôi chịu phạt 8% giá trị HĐ mua bán số tiền lên tới 976,2 triệu đồng. Mà đáng lẽ ra, kể cả bị “xử ép” thì Cty chúng tôi cũng chỉ bị phạt oan 8% của giá trị HĐ ủy thác (211,5 triệu đồng) tương đương khoảng 18 triệu đồng mà thôi”- đơn kêu cứu của Cty Chè Mộc Châu khẳng định.
Việc TAND huyện Mộc Châu đã căn cứ giá trị của cả lô hàng để buộc Cty Mộc Châu phải bồi thường cho Cty Trà Việt số tiền 976,2 triệu đồng gấp gần 5 lần giá trị HĐ ủy thác xuất khẩu là trái với thực tế và không có căn cứ, gây thiệt hại nghiêm trọng về vật chất lẫn danh dự cho doanh nghiệp Chè Mộc Châu. Từ sai lầm này, TAND huyện Mộc Châu tiếp tục sai khi tính án phí buộc Cty Chè Mộc Châu phải trả số tiền lên đến 41,3 triệu đồng.
Vì các lẽ trên, Cty Chè Mộc Châu đã kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm số 02/2017 ngày 23/5/2017 của TAND huyện Mộc Châu, đề nghị TAND tỉnh Sơn La trong phiên xử phúc thẩm tới đây tuyên hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ xét xử vụ án.