Dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
Như Báo PLVN đã phản ánh, ngày 8/2/2015 ông Bùi Khắc Sơn và bà Cao Thị Kim Bình (bên A) đã ký hợp đồng mua bán – chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất với bên mua là bà Trần Thị Phi Yến (bên B). Theo hợp đồng, bên A đồng ý bán cho bên B lô đất và tài sản trên đất tại số 67/1A đường Lê Đức Thọ, phường 13, quận Gò Vấp, TP HCM với giá 29.676.535.200đ, bao gồm cả tiền cọc 8.175.535.200đ.
Số tiền cọc được thống nhất là bên B giao ngay cho bên A 2,5 tỷ đồng, số còn lại để bên B nộp thuế sử dụng đất và thuế trước bạ. Ngay sau khi ký hợp đồng, bên B sẽ thực hiện nghĩa vụ tiền cọc và đóng thuế.
Tuy nhiên, hơn 1 tuần sau khi ký hợp đồng bên A không thấy bên B thông báo về việc nộp 2 khoản tiền trên nên ông Bùi Khắc Sơn – đại diện bên A đến cơ quan Thuế hỏi thì được biết chưa ai nộp. Ông Sơn tiếp tục đến Sở TNMT hỏi thì được biết thửa đất 67/1A không phải nộp 2 khoản tiền trên.
Ngay sau đó, bên A đã đề nghị bên B giao lại số tiền 5.676.535.200đ cho bên A, nhưng bên B luôn khẳng định đã nộp nên không xin lại được, song không đưa ra được biên lai và tờ khai thuế cho bên A.
Vì vậy, ngày 28/5/2015, bên A đã có văn bản thông báo đề nghị trong vòng 7 ngày, bên B phải giao nộp biên lai và tờ khai thuế cho bên A. Quá hạn trên, bên B vẫn không có bất cứ ý kiến phản hồi nào nên ngày 6/6/2015 bên A đã có thông báo chấm chứt hợp đồng gửi bên B vì bên B đã vi phạm nghĩa vụ đặt cọc.
Tuy nhiên, sau khi nhận được 2 thông báo trên, bên B đã hành xử một cách tiêu cực khi nhiều lần dẫn các nhóm “xã hội đen” đến gây áp lực về tinh thần, đe dọa tính mạng gia đình bên A tại chỗ ở và cả nơi Công ty Nhật Bản đang thuê hoạt động sản xuất tại thửa đất 67/1A khiến công ty này không thể hoạt động.
Chưa dừng lại, ngày 20/11/2015, bên B khởi kiện bên A ra TAND quận Gò Vấp, yêu cầu tòa án buộc bên A tiếp tục hợp đồng. Vụ việc đã được TAND quận Gò Vấp thụ lý ngày 23/11/2015. Sau hơn 1 năm, ngày 29/12/2016 TAND quận Gò Vấp mới ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng lại ấn định thời điểm mở phiên tòa vào ngày 20/01/2017. Tuy nhiên, bên B lại có đơn xin hoãn phiên tòa và đến ngày 13/02/2017 thì tiếp tục xin rút đơn kiện.
“Trong quá trình giải quyết vụ án, bên B đã không có bằng chứng gì chứng minh được việc nộp tiền cho Nhà nước ngoài 1 bản hợp đồng dịch vụ trích thưởng được ký ngày 10/2/2015. Việc này thể hiện bên B đã cố tình lừa dối bên bán, vi phạm hợp đồng mà 2 bên đã ký kết. Vì vậy, việc hợp đồng không thể thực hiện được là xuất phát từ nguyên nhân vi phạm của bên B”, ông Sơn bức xúc nói.
Vi phạm thời hạn xét xử?
Sau khi rút đơn khởi kiện, bên B không có thiện chí giải quyết vụ việc, tiếp tục gây khó khăn cho bên A. Vì vậy, ngày 22/02/2017, ông Sơn đã khởi kiện bên B là bà Trần Thị Phi Yến ra TAND quận Gò Vấp, yêu cầu: Hủy hợp đồng mua bán – chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 8/2/2015; buộc bên mua phải chịu trách nhiệm về việc lừa dối, gây thiệt hại cho bên bán bằng việc mất toàn bộ tiền đặt cọc; buộc bên mua phải trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cùng toàn bộ giấy tờ liên quan.
Vụ việc được TAND quận Gò Vấp thụ lý ngày 6/3/2017, nhưng đến nay TAND quận Gò Vấp vẫn chưa đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Đến ngày 9/11/2017, tòa này mới ban hành Quyết định số 86/2017/QĐ-CCTLCC yêu cầu nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh liên quan đến vụ án.
“Tôi khẳng định các tài liệu chứng cứ có trong vụ án mà tôi nộp theo đơn khởi kiện ngày 22/2/2017, cùng bản tự khai của tôi ngày 4/4/2017 đã chứng minh đầy đủ. Vậy tại sao TAND quận Gò Vấp lại yêu cầu tôi nộp lại, phải chăng họ đang cố kéo dài vụ án, gây khó khăn cho tôi?”, ông Sơn bức xúc.
Báo PLVN đề nghị TAND quận Gò Vấp cần thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, khẩn trương đưa vụ án ra xét xử để đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.
Khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định: Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này.