Theo Dự luật Đầu tư (sửa đổi bổ sung), cam kết của nhà nước trong việc đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư phù hợp với cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế sẽ được cụ thể hóa trong, không quy định một cách chung chung như pháp luật hiện hành.
Những nguyên tắc và điều kiện thực hiện biện pháp không hồi tố trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật thay đổi làm ảnh hưởng bất lợi đến điều kiện đầu tư hoặc ưu đãi đầu tư đã áp dụng đối với nhà đầu tư.. cũng được cụ thể hóa hơn.
Với trường hợp cấm đầu tư, Dự luật quy định: Cá nhân, doanh nghiệp chỉ bị hạn chế việc đầu tư theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng.
Nhằm hạn chế việc ban hành tùy tiện các lĩnh vực cấm đầu tư và đầu tư có điều kiện, Dự thảo Luật khẳng định nguyên tắc: Các lĩnh vực đầu tư có điều kiện chỉ được quy định trong các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân các cấp không được ban hành danh mục lĩnh vực cấm đầu tư và lĩnh vực đầu tư có điều kiện.
Dự luật lần này cũng bổ sung danh mục đầu tư được ưu đãi: các dự án năng lượng mới, năng lượng sạch, các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao, sản phẩm cơ khí trọng điểm.
Dự luật cũng cụ thể hóa tiêu chí xác định một số dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư chưa được quy định rõ trong Luật hiện hành (Ví dụ: bảo vệ môi trường sinh thái gồm dự án thu gom, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải, khí thải).
Ưu đãi đầu tư được thực hiện dưới hình thức cho vay đầu tư, hỗ trợ đầu tư hoặc cho vay xuất khẩu đối với nhà đầu tư có dự án thuộc Danh mục vay vốn tín dụng đầu tư hoặc sản xuất hàng hóa thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu theo quy định của Chính phủ về tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu.
Ngoài ưu đãi đầu tư theo ngành nghề và địa bàn, Dự thảo Luật bổ sung chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với một số doanh nghiệp và hoạt động đầu tư trên cơ sở luật hóa quy định trong một số Nghị định đã được thực hiện ổn định trong thời gian qua; cụ thể như sau:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn sẽ có những cơ chế đãi ngộ riêng. Theo ban soạn thảo, việc bổ sung các quy định này nhằm hệ thống hóa và nâng cao hiệu lực pháp lý của chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đã được thực hiện ổn định tại các Nghị định hiện hành.
Ngoài những vấn đề về ưu đãi đầu tư, Dự luật cũng thể hiện rõ tinh thần ưu đãi đầu tư trong việc chỉnh sửa các quy định về Thủ tục đầu tư, thủ tục triển khai thực hiện dự án đầu tư, quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư...
Luật Đầu tư được Quốc hội thông qua năm 2005 trên cơ sở hợp nhất Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Việc ban hành Luật này là một bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam.
Những quy định của Luật Đầu tư đã mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư, kinh doanh của các nhà đầu tư bằng việc xóa bỏ một số rào cản đầu tư không phù hợp với thông lệ kinh tế thị trường và cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư.
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, một số quy định của Luật đầu tư còn tồn tại những hạn chế trong vấn đề như phạm vi điều chỉnh, chính sách bảo đảm đầu tư, quy định về lĩnh vực cấm đầu tư, đầu tư có điều kiện và lĩnh vực ưu đãi đầu tư...
Những hạn chế nêu trên đã làm cho môi trường đầu tư trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, đưa ra vấn đề bức thiết phải sửa đổi luật.
Được đưa ra lấy ý kiến tại kỳ họp Thứ 7 QH khóa XIII, Luật Đầu tư cơ bản tiếp tục duy trì kết cấu của Luật Đầu tư hiện hành với 9 Chương, 84 Điều. So với Luật Đầu tư hiện hành, Dự thảo Luật giữ nguyên 4 điều, sửa đổi 31 điều, bổ sung 9 điều mới và bỏ 31 điều, trong đó sửa đổi căn bản các nội dung về thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam và hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Ngoài ra, Luật bỏ Chương VII về đầu tư kinh doanh vốn nhà nước vì nội dung này đã được quy định trong Dự thảo Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh./.