Để cụ thể hóa quy định tại khoản 6 Điều 3, khoản 3 Điều 18, điểm b khoản 1 Điều 35 Luật Tiếp cận thông tin và đảm bảo tính khả thi, Dự thảo Nghị định dự kiến quy định theo hướng: Đối với người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Điều 3 dự thảo Nghị định quy định việc cung cấp thông tin được thực hiện bằng nhiều hình thức phù hợp với các đối tượng, điều kiện thực tế của địa phương, căn cứ vào loại thông tin, cơ quan nhà nước trên địa bàn quyết định lựa chọn một hoặc một số phương thức tuyên truyền, phổ biến, cung cấp thông tin phù hợp.
Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có trách nhiệm ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào việc xây dựng hệ thống thông tin công cộng, nâng cấp, đầu tư các trang thiết bị chuyên dùng phục vụ cho hoạt động cung cấp thông tin của địa phương hoạt động cung cấp thông tin ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về tiếp cận thông tin.
Đối với người khuyết tật, dự thảo Nghị định quy định các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật thực hiện quyền tiếp cận thông tin như: cơ quan cung cấp thông tin đa dạng hóa các hình thức, phương thức cung cấp thông tin phù hợp với người yêu cầu cung cấp thông tin; bố trí thiết bị nghe - xem và các thiết bị phụ trợ phù hợp với dạng và mức độ khuyết tật, phù hợp với điều kiện thực tiễn của cơ quan; bố trí cán bộ hướng dẫn, giải thích và giúp đỡ người khuyết tật khi có khó khăn trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, đặc biệt khi người khuyết tật gặp khó khăn trong việc điền thông tin, mô tả thông tin, ký Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người khuyết tật,...
Về cung cấp thông tin theo yêu cầu cho công dân thông qua tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, khoản 2 Điều 36 của Luật quy định: “Công dân có thể yêu cầu cung cấp thông tin thông qua tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp của mình trong trường hợp nhiều người của tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp đó cùng có yêu cầu cung cấp thông tin giống nhau. Chính phủ quy định chi tiết khoản này”.
Để quy định chi tiết nội dung này, dự thảo Nghị định quy định việc cử người đại diện của tổ chức để thực hiện việc yêu cầu cung cấp thông tin của nhiều người trong tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp của mình có cùng yêu cầu cung cấp thông tin giống nhau; trách nhiệm cụ thể của người đại diện để thực hiện việc yêu cầu cung cấp thông tin cho nhiều người. Trình tự, thủ tục cung cấp thông tin theo yêu cầu cho công dân thông qua tổ chức được thực hiện như trình tự cung cấp thông tin cho công dân.
Bên cạnh đó, với mục đích làm sạch các thông tin trước khi cung cấp thông tin cho công dân, đảm bảo các thông tin cung cấp cho công dân không thuộc thông tin không được tiếp cận, thông tin được tiếp cận có điều kiện theo quy định tại Điều 6, Điều 7 Luật Tiếp cận thông tin, dự thảo Nghị định quy định trách nhiệm của đơn vị chủ trì tạo ra thông tin rà soát, xác định nội dung thông tin trong hồ sơ, tài liệu thuộc thông tin không được tiếp cận, thông tin được tiếp cận có điều kiện. Trên cơ sở đó, đơn vị đầu mối cung cấp thông tin có trách nhiệm loại bỏ các nội dung thông tin mang tính bí mật trước khi cung cấp cho công dân.
Nhằm cung cấp thông tin cho người yêu cầu thuận lợi, kịp thời và góp phần giảm yêu cầu cung cấp thông tin thì ứng dụng công nghệ thông tin trong việc trong cung cấp thông tin là rất quan trọng. Do đó, dự thảo Nghị định quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan cung cấp thông tin bảo đảm các biện pháp kỹ thuật nhằm ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cung cấp thông tin; tổ chức số hóa, sử dụng chữ ký số, sử dụng kỹ thuật công nghệ thông tin trong quản lý tài liệu điện tử, quản lý thông tin, theo dõi việc cung cấp thông tin và thiết lập Sổ theo dõi cung cấp thông tin theo yêu cầu; tổ chức chuyển nguồn tài liệu giấy hoặc hình thức chứa đựng thông tin khác sang tài liệu điện tử để đảm bảo cung cấp thông tin cho công dân thuận lợi, kịp thời, dễ dàng tra cứu.
Các hướng dẫn cụ thể của dự thảo nói trên được hy vọng sẽ bảo đảm tính khả thi trong điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam; phù hợp với điều kiện thực tiễn nhưng vẫn bảo đảm hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước.