Cục THADS Bình Thuận tạm hoãn cưỡng chế |
Khiếu nại có cơ sở
Ngày 19/3/2018, chỉ một ngày trước khi diễn ra việc cưỡng chế như đã thông báo, Cục Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh Bình Thuận ra Thông báo số 82/TB-THADS về việc hoãn việc cưỡng chế đối với bà Nguyễn Thị Đào, ông Phạm Trung Nhân.
Theo đó, ngày 13/3, Cục THADS nhận được các đơn khiếu nại của 4 anh em ông Phạm Trung Nhân, Phạm Trung Nguyên, Phạm Thanh Nhàn, Phạm Thanh Nhã (cùng ở thị trấn Lương Sơn, huyện Bắc Bình) về việc Bản án 03/2017/DS-ST của TAND tỉnh Bình Thuận có nhiều sai sót về mặt thủ tục tố tụng và không xem xét đến quyền lợi của anh em ông đối với tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình, đồng thời yêu cầu tạm dừng việc thi hành án.
Cơ quan thi hành án xét thấy việc khiếu nại của 4 anh em ông Nhân là có cơ sở, cần thiết phải phối hợp với các cơ quan liên quan để làm rõ trước khi tiến hành cưỡng chế nhằm tránh thiệt hại cho các đương sự cũng như khiếu nại sau này. Do đó, đơn vị tạm hoãn cưỡng chế cho đến khi giải quyết xong khiếu nại của 4 anh em ông Nhân.
Liên quan đến các khiếu nại của 4 anh em ông Nhân; Tổng cục THADS cũng đã chuyển đơn của 4 người người đến Cục trưởng Cục THADS tỉnh Bình Thuận để xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng thời hướng dẫn họ gửi đơn đến người có thẩm quyền để khiếu nại Bản án 03/2017/DS-ST của TAND tỉnh Bình Thuận.
TAND tỉnh Bình Thuận và VKSND tỉnh Bình Thuận cũng có thông báo trả lời đơn khiếu nại của ông Nhân, nội dung thông báo yêu cầu của đương sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của 2 cơ quan này nên phải khiếu nại lên cơ quan cấp cao hơn.
Hàng loạt vấn đề cần xem xét lại
Như Báo PLVN đã nhiều lần phản ánh, vụ việc tranh chấp này khởi nguồn từ việc năm 2002, hai mẹ con bà Đào, ông Nhân có ký 2 hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ với vợ chồng ông bà Huỳnh Thị Truyền, Cao Hạnh (TP Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận). Sau khi ký hợp đồng và xong thủ tục sang tên, ông Nhân và bà Đào cho rằng phía nhận chuyển nhượng vẫn chưa chịu thanh toán tiền nên khởi kiện, yêu cầu huỷ hợp đồng, đòi lại tài sản.
Năm 2008, qua 2 lần xử sơ thẩm và phúc thẩm, Toà đều cho rằng bà Truyền tiền hậu bất nhất, có hành vi gian dối cũng như không chứng minh được mình đã giao tiền cho bên bán đất, vì vậy tuyên huỷ 2 hợp đồng chuyển nhượng. Năm 2009, Toà Dân sự TAND Tối cao ra quyết định giám đốc thẩm huỷ 2 bản án sơ thẩm, phúc thẩm nói trên, yêu cầu xét xử lại để làm rõ thêm các vấn đề.
Năm 2017, TAND tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm lại vụ án. Trước lời khai của bị đơn rằng “đã thanh toán đủ tiền”, Toà không yêu cầu họ chứng minh cho lời khai này, như chứng từ, biên nhận thể hiện việc giao nhận tiền hay thời gian địa điểm giao nhận tiền. Mà ngược lại, Toà yêu cầu phía nguyên đơn chứng minh mình chưa nhận tiền.
Ông Nhân, bà Đào tất nhiên không thể chứng minh cho lời khai rằng mình vẫn chưa nhận được tiền thanh toán. Và Toà bác khởi kiện của ông Nhân, dù cho 9 năm trước, cũng chính TAND tỉnh Bình Thuận 2 lần tuyên án đều cho rằng lời khai của bà Truyền là “không có căn cứ chấp nhận” và “có hành vi gian dối”.
Đầu tháng 3/2018, khi có ồn ào việc cơ quan thi hành án sẽ tiến hành thi hành Bản án 03/2017/DS-ST của TAND tỉnh Bình Thuận nói trên, 3 người em ruột của ông Nhân là Nguyên, Nhàn, Nhã mới té ngửa việc đất của gia đình bị bán lúc nào không hay, việc mua bán lại được chính quyền từ xã đến huyện rồi đến Toà công nhận. Điều đặc biệt, trong 3 lần xét xử, các cấp Toà đều không mời các ông lên làm việc cũng như lấy ý kiến.
Hồ sơ vụ án thể hiện rõ, 2 thửa đất chuyển nhượng được UBND huyện Bắc Bình cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số U 231026 và U 231027 cho hộ gia đình bà Đào, ông Nhân vào ngày 6/5/2002. Hộ gia đình khi đó có 5 thành viên là bà Đào và 4 anh em ông Nhân, tuy nhiên hợp đồng chuyển nhượng chỉ có bà Đào và ông Nhân ký tên. Ông Nhân mới đây đã thừa nhận, ông và mẹ bán 2 mảnh đất nói trên cho vợ chồng bà Truyền mà không có sự đồng ý của 3 người em trai.
Nhiều luật sư cho rằng, việc chuyển nhượng sai sót từ việc lập hợp đồng cho đến việc UBND xã xác nhận, UBND huyện thẩm định cho đến việc thu giấy và cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Việc Bản án 03/2017/DS-ST của TAND tỉnh Bình Thuận công nhận hợp đồng chuyển nhượng trái luật nói trên là sai lầm nghiêm trọng, vi phạm Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự.
Bản án cũng bị cho là vi phạm Bộ luật Tố tụng Dân sự khi Toà yêu cầu phía nguyên đơn (người được quyền nhận tiền) phải có chứng cứ “phủ nhận” việc nhận tiền. Trong khi nguyên tắc thông thường, nghĩa vụ chứng minh việc thanh toán tiền thuộc về bên giao tiền (bên bị đơn) bằng các chứng cứ như: chứng từ, giấy biên nhận,... “Yêu cầu của Toà là bắt người chưa thực hiện hành vi chứng minh họ chưa thực hiện hành vi”, một luật sư nhận xét.
Ngoài ra, bản án có lời khai của 3 người với tư cách là người làm chứng nhưng lại không đưa vào vụ án và triệu tập tham gia phiên toà xét xử để xác định những người này là ai, có thật hay không, xác định lời khai của họ có đủ cơ sở để làm chứng cứ của vụ án, có đúng quy định pháp luật hay không.
Hợp đồng chuyển nhượng có dấu hiệu vi phạm về trình tự thực hiện việc chuyển nhượng QSDĐ quy định tại Nghị định 17/1999/NĐ-CP nhưng bản án sử dụng những lời khai của những người không có trong vụ án làm chứng cứ, việc thẩm định của UBND xã, phòng địa chính có những mâu thuẫn.
Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc.