Đem báu vật ủng hộ kháng chiến
Dù không có tài liệu nào chứng minh được việc cho Pháp vay hàng trăm ché bạc và kho báu của ông vua voi Y Thu K’nul là có thật. Nhưng những người trong dòng họ K’nul vẫn tin rằng kho báu khổng lồ của chàng dũng sĩ săn voi lừng danh ấy vẫn tồn tại đâu đó trong những cánh rừng bạt ngàn.
Chuyện Y Thu sống nhân nghĩa với người dân buôn làng và quyết tâm ngăn chặn ý định của thực dân Pháp còn thể hiện cả ngay sau khi đã già yếu. Lúc đó một người em vợ hai của Y Thu bị bắt trong một cuộc giao tranh với Pháp để lại người vợ đang độ tuổi trăng rằm. Cô nàng sở hữu một sắc đẹp mặn mòi khiến cả người Pháp cũng phải xiêu lòng. Một tay tướng Pháp có ý định bắt cô về làm vợ.
Nhưng Y Thu đã đứng ra nhận thiếu phụ này làm vợ khiến tên tướng Pháp không dám làm càn, vì thế chúng đành thả người trả cho ông. Năm 1938, “Vua voi” Y Thu qua đời vì già yếu, ông hưởng thọ 110 tuổi. Sau khi vị vua voi này trút hơi thở cuối cùng, thì thông tin cái chết của ông được loan báo đi cả một vùng rộng lớn. Lễ an táng được dòng họ và người dân tổ chức trang nghiêm, kéo dài nhiều ngày với sự tham dự của nhiều dân tộc trong khắp các buôn làng trên cả Tây Nguyên rộng lớn.
Kho báu khổng lồ của vua Voi Y Thu dường như vẫn được cất giấu đâu đó giữa đại ngàn Tây Nguyên bao la, vô tận |
Sau khi Y Thu qua đời, người nhà ông cùng dân làng quyết định xây dựng mộ cho ông theo kiến trúc M’Nông, nhằm thể hiện lòng biết ơn và sự tôn kính dòng tộc. Sau khi được chôn cất, nơi an nghỉ của vị vua voi này được xem là vùng cấm địa, những ai không phận sự thì không được phép đặt chân vào. Chính nơi đây cũng là vùng đất an táng cho những dũng sĩ lừng danh và người trong dòng họ nhà Y Thu.
Cũng sau ngày vị “Vua voi” lừng danh khắp núi rừng Tây Nguyên qua đời thì những người trong dòng tộc bàn nhau kế hoạch chia kho báu khổng lồ và đất đai, của cải vật chất mà Y Thu một thời gây dựng nên.
Mặc dù có đến 5 bà vợ nhưng Y Thu lại không có nổi một người con nối dõi. Vì thế, của cải được chia đều cho 5 bà vợ và tất cả những người trong dòng tộc nhà Y Thu. Có người được chia vàng, trang sức, có người nhận ché bạc, có người được đất, có người lại lấy voi và những vật dụng quý báu. Số lượng tài sản trong kho báu của Y Thu quá khổng lồ cho nên một số người trong dòng dõi đã nổi lòng tham và bàn mưu ăn trộm. Trong đêm, họ đã bàn nhau đem voi chở giấu những ché đựng đầy bạc kia vào tận trong rừng sâu.
Khi số ché bạc trong kho báu đã gần cạn thì họ bị phát hiện, một số người truy đuổi nên họ đã chạy trốn sang Campuchia lánh nạn. Sau mấy chục năm lẩn trốn, lấy vợ chồng có con họ trở lại nơi giấu những ché bạc kia để mong tìm kiếm lại, nhưng những cánh rừng bạt ngàn cây ngày ấy, sau nhiều năm tháng đã bị tàn phá bởi bom đạn, chất hóa học, cháy rừng nên họ không tài nào tìm ra tăm hơi.
Cho dù những người trong dòng tộc Y Thu cũng cử người đi lần manh mối và tất cả những khu vực có thể cất giấu nhưng cũng không có kết quả, đều phải thất vọng ra về tay trắng. Trong những hiện vật có giá trị, được lưu truyền một thời gian dài sau này có thanh kiếm bằng bạc, chuôi vàng, nạm ngọc và chiếc khiên bằng đồng đen từng một thời theo Y Thu đánh giặc.
Theo người cháu gái thuộc dòng dõi Y Thu thì những hiện vật có giá trị này vẫn còn đâu đó trong gia đình thuộc dòng dõi, nó bị giấu ngay sau khi Y Thu qua đời. Trong khoảng thời gian những năm kháng chiến kêu gọi cả nước huy động đồng để sản xuất đạn, những người trong dòng tộc của Y Thu cũng nhiệt tình ủng hộ. Họ đem những thứ có được trong kho báu như: Nồi đồng, mâm đồng, cồng chiêng bằng đồng đem ủng hộ kháng chiến.
Kho báu giữa rừng sâu - Bí ẩn chưa có lời giải!
Dù thời hoàng kim của dòng họ nhà Y Thu đã qua nhưng họ vẫn có vị trí tinh thần rất lớn trong buôn, được buôn dân tin yêu. Và điều đặc biệt nhất là họ còn lưu giữ được một tấm ảnh của Y Thu, do một nhiếp ảnh gia người Pháp chụp. Trong tấm hình đó, Y Thu đứng cạnh người vợ cả của mình trước ngôi nhà tranh truyền thống của người M’Nông.
Trong tấm hình này, vị vua voi mặc một tấm áo nhung lụa đắt tiền, tay cầm gậy, bên dưới tấm hình có dòng chữ tiếng Anh, tạm dịch là “Khunjunob và vợ”, không ghi ngày tháng chụp. Bức ảnh gốc hiện tại đang trưng bày tại bảo tàng Paris, còn đây chỉ là bản chụp lại. Người trong dòng họ K’nul tiết lộ, để có được bản sao, đích thân người cháu gái dòng dõi này đã phải liên hệ tìm kiếm rất nhiều năm, qua nhiều mối quan hệ, cuối cùng một người em họ đang làm việc tại Pháp tình cờ thấy tại một bảo tàng ở Paris.
Ngày cô cháu gái mang tấm hình về Việt Nam, cả dòng họ đã thiết heo mở tiệc ăn mừng để tỏ lòng thành kính với Vua voi là biết ơn cô cháu gái danh giá. Dù cho bom đạn trong chiến tranh đã tàn phá khủng khiếp cả huyện Buôn Đôn nhưng lăng mộ của Y Thu vẫn hiên ngang sừng sững nguyên vẹn như thách thách tất cả. Bất cứ du khách nào có dịp tham quan khu du lịch Bản Đôn và khu lăng mộ cũng sẽ thấy được sự bề thế, giàu có một thời xưa cũ.
Trên lăng mộ của vua voi Y Thu, người ta còn ghi lại tiểu sử cũng như những chiến tích của ông tổ nghề săn bắt, thuần dưỡng voi đầy danh tiếng đạt được. Bà H’Nguă Byă trăn trở: “Cả dòng họ chúng tôi không có ý định đòi lại khoản vay tiền bạc từ xa xưa, nếu có đòi lại được thì chúng tôi cũng coi đó là tài sản quốc gia thôi. Chỉ mong sao nhà nước có chính sách hỗ trợ trong việc bảo tồn những di sản có giá trị như khu lăng mộ của cha ông chúng tôi”.
Có thể thấy, tất cả những câu chuyện về huyền thoại vua săn voi chỉ đọng lại qua miệng và căn cứ vào gia phả, trí nhớ của những người cháu, chắt trong dòng tộc nhà Y Thu Knul, mà ở đây là ông Ama Ghi, hai vợ chồng H’Nguă Byă. Hơn thế nữa, bản Đôn ngày nay đã phải trải qua rất nhiều lần di chuyển vì những trận cháy rừng khủng khiếp.
Vì thế, khu đất được xây dựng kho bạc của vị vua voi lừng danh giờ đây cũng không thể xác định được vị trí cụ thể, cũng có thể nó chỉ còn là khu đất với những cỏ dại mọc um tùm, hoặc lẩn khuất ở đâu đó trong những cánh rừng rộng lớn đầy huyền bí giữa đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ, xa xôi, vô cùng vô tận này...