Công cuộc mở rộng đất đai
Như đã nói ở kỳ trước, khi đã có đất, Y Thu tận dụng phát triển kinh tế, hiệu quả kinh tế nhất vẫn là săn bắt và thuần dưỡng voi để bán. Y Thu giàu lên nhanh chóng và nổi tiếng không những ở vùng Tây Nguyên mà tên của ông được nhắc đến ở cả Lào, Thái Lan và Campuchia. Khi đã giàu có, ông Y Thu tiếp tục dùng tiền mua đất của các tù trưởng khác trong vùng, mở rộng vùng cát cứ.
Điều đặc biệt là dù giàu, nhưng lúc sinh thời Y thu có tư tưởng rất tiến bộ và nhân văn, ông không hề làm giàu bằng cách bóc lột người khác, mọi người ở trong buôn Đôn đều công bằng sống với nhau. Tất cả những cuộc xung đột giữa các tù trưởng khắp giải đất Tây Nguyên mà Y Thu biết, ông đều đứng ra hòa giải.
Là một người yêu hòa bình, ông không chủ trương gây chiến tranh với các tộc trưởng lân cận để giành đất, mà chỉ bằng con đường thương lượng hay đổi bán. Đất đai của Y Thu càng lúc càng rộng. Y Thu cũng nhận thấy rằng, việc buôn bán nô lệ giữa các tộc người lúc bấy giờ là không đúng. Vậy nên, mỗi khi người nào vay nợ mà không trả nổi bị chủ nợ bắt, người phạm tội trộm cắp, vi phạm luật tục, tù nhân chiến tranh hay kể cả bị cho là “Ma lai” sau đó bị đưa đi bán thì ông cũng chuộc lại và đưa về làm ăn sinh sống.
|
Vùng đất Tây Nguyên huyền bí chứa đựng rất nhiều huyền thoại... |
Các buôn làng Y Thu lập ra để họ làm ăn cũng vì thế mà ngày một nhiều, rải rác khắp Tây Nguyên. Có thế mạnh về săn bắt nhưng cây lương thực ở buôn Đôn lúc bấy giờ vẫn là một thế yếu. Y Thu nhận thấy điều đó nên khi người Lào đến giao thương, ông biết họ nắm rõ cách trồng lúa nên điều kiện rằng họ phải dạy người dân buôn Đôn cách canh tác rồi mới chịu buôn bán. Cũng chính vì thế mà ở Tây Nguyên, bản Đôn là nơi trồng được lúa nước đầu tiên.
Trước sự chỉ huy của chàng dũng sĩ Y Thu, Bản Đôn được xây dựng rất trù phú, đường sá, nhà cửa khang trang, dân chúng hiền hòa vui sống. Khi tất cả những vùng đất của tộc trưởng khác đánh thuế ong (người dân lấy mật ong trên cây phải chịu thuế của tộc trưởng - PV) thì Y Thu miễn tất cả các khoản thuế cho người dân bản địa và người nhập cư từ nơi khác đến.
Vì tất cả những lý do kể trên đã khiến buôn Đôn có sức hút đến nỗi rất nhiều người dân tộc thiểu số quanh vùng thậm chí cả người từ Campuchia, Lào, Thái Lan cũng chạy sang xin nhập buôn để sinh sống. Bằng chứng là hiện nay buôn Đôn có đến 15 dân tộc, trong đó có cả người gốc Lào, Thái, Campuchia. Điểm này là sự khác biệt và độc đáo nhất mà bất cứ buôn nào ở Tây Nguyên đều không có.
Vị vua Voi nhân nghĩa, hào hoa
Cũng chính vì giỏi giang lại sống nhân nghĩa nên Y Thu được nhiều cô gái trong vùng yêu mến và mong muốn lấy làm vợ. Mỗi người đến với Y Thu bằng một cơ duyên khác nhau, và cả năm mối tình của vị vua voi này cũng là một câu chuyện dài được con cháu truyền miệng cho đến tận ngày nay.
Ông Ama Ghi, từng nghe thế hệ cha ông đi trước kể lại những câu chuyện về cụ tổ. Năm nay Ama Ghi đã bước sang tuổi 73, giọng nói vẫn hào sảng ông đưa chúng tôi ngược lại không gian, thời gian, về nơi xuất phát những câu chuyện tình của Y Thu. Người vợ đầu của Y Thu là con gái một vị tù trưởng danh giá người M’nông nhưng sống trên đất Campuchia ở gần nơi Y Thu sinh sống khi còn trẻ. Đến độ 17, nhan sắc của nàng đã vang xa khắp các buôn làng.
Rất nhiều công tử danh gia vọng tộc sẵn sàng dâng hiến tất cả tài sản chỉ mong được nàng để mắt tới. Thế nhưng, trái tim nàng chỉ xao xuyến trước Y Thu, một người trí dũng song toàn. Y Thu cũng vậy, chàng trai chưa bao giờ khuất phục trước loài mãnh thú đã “đổ gục” trước sắc đẹp của cô con gái vị tù trưởng nọ. Y Thu trao cho người con gái mình yêu lễ vật để làm tin, cô gái về nói lại với cha mẹ.
Biết tiếng của Y Thu, cha mẹ nàng đã đồng ý cho chàng làm rể. Đám cưới linh đình được tổ chức suốt ba ngày ba đêm ở nhà gái. Dân bản ai đến tham dự cũng mang rượu, thịt, thuốc lá đến chung vui… Cưới nhau được 1 năm thì người vợ này mang bầu sau đó sinh hạ được một bé gái đầu lòng. Người M’nông theo chế độ mẫu hệ nên việc vợ sinh con gái đầu lòng khiến Y Thu vui mừng khôn xiết.
Thế nhưng hạnh phúc chẳng bao lâu, khi bé gái được 9 tuổi, biết ra suối lấy nước, biết đi nương cùng mẹ thì bỗng nhiên bị bạo bệnh qua đời. Vợ Y Thu đã khóc thương con gái đến độ ủ rũ như chiếc lá cây giữa mùa khô. Y Thu thì cố tỏ vẻ cứng rắn, nhưng ẩn sâu bên trong người đàn ông ấy là một nỗi buồn không tên.
Người vợ thứ 2 đến với Y Thu một cách tình cờ, lúc này Y Thu đã có tiếng tăm khắp vùng Tây Nguyên, ai buôn bán người qua địa phận của Y Thu ông đều mua hoặc chuộc để thả tự do cho họ. Lúc bấy giờ ở buôn bên cạnh có một cô gái tên H’Ông, mới độ 16 nhưng đã phải đi ở đợ cho nhà giàu có để trả nợ. Cô bé này bị chủ vu cho là mình ăn trộm đồ nên bắt mang đem đi bán. Y Thu thấy vậy bèn hỏi người chủ kia H’Ông đã ăn trộm những gì rồi trả cho ông ta đủ những thứ đó để chuộc. Y Thu trả tự do cho cô bé, nhưng cảm kích tấm lòng của Y Thu, cô ta đã xin ở lại làm tôi tớ.
Người vợ đầu của Y Thu thấy H’Ông là một cô bé xinh đẹp, hơn nữa mình lâu rồi không sinh được con cho chồng nên bà đã làm đám cưới cho chồng với cô bé H’Ông. Tiếng tăm của Y Thu vang danh khắp Tây Nguyên, người ta tôn sùng ông như một vị vương ở vùng đất này. Có lẽ vì vậy mà có rất nhiều người con gái muốn làm vợ ông mặc dù biết ông đã có gia đình. Trong những lần đi săn, những cuộc ngoại giao sang vùng đất mới, Y Thu đều quen biết và khiến các cô gái đẹp như những đóa Pơ Lang rừng phải lòng. Ai cũng mong muốn làm vợ và sinh con nối dõi cho Y Thu.
Chính vì thế, Y Thu lấy thêm hai người vợ xinh đẹp có tiếng khắp vùng là H’ Jhông và H’ Bloih nữa. Tuy nhiên cả hai người vợ mới lẫn hai người vợ cũ đều không sinh cho ông một người con nào. Đó cũng là điều khiến ông buồn phiền, suy nghĩ, sau này Y Thu nhận hai người con gái mồ côi cả cha lẫn mẹ về nuôi.
Với cách sống nhân nghĩa, tốt bụng Y Thu lấy được lòng người dân trong vùng, vì thế họ đã suy tôn lên làm “vua” của chốn núi rừng Tây Nguyên. Sau một lần săn được một con bạch tượng, thân trắng muốt, ngà đen óng, ông đã dâng tặng con voi quý này cho vua Xiêm (Thái Lan - PV).
Cảm mến tấm chân tình đó, vị vua Xiêm cũng tặng lại cho ông nhiều của cải có giá trị, trong đó có một thanh kiếm có lưỡi bằng bạc, chuôi bằng vàng, nạm ngọc. Không những thế, Y Thu còn được phong tặng danh hiệu “Vua săn voi”, người đời gọi tắt là “Vua voi”. Quá trình sinh sống, làm ăn, đại gia đình Y Thu có rất nhiều của cải, truyền rằng ông tìm được báu vật của đại ngàn. Kho báu của vị “Vua voi” này được hình thành bắt đầu từ đây.
(Còn nữa)