Theo Viện kiểm sát nhân dân Đồng Nai, việc nhận định và quyết định của bán án sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án hai cấp tỉnh Đồng Nai nêu trên là không có cơ sở vững chắc, không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, thu nhập chứng cứ chưa đầy đủ, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Đất được cấp sổ đỏ vẫn bị bác đơn
Theo hồ sơ, ông Bùi Văn Hàn trình bày gia đình ông có thửa đất diện tích 932 m2 thuộc thửa 256, tờ bản đồ số 7, ấp Tân Bình, xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc, Đồng Nai liền kề với thửa đất của ông Vũ Văn Phong. Ranh đất giữa hai gia đình được xác định là hàng rào dâm bụt do ông Hàn trồng. Vì ông Hàn không sống tại đây nên ông Phong tự ý nhổ hàng cây dâm bụt trồng xéo qua đất của ông Hàn để lấn chiếm có đoạn vào sâu khoảng 1 mét. Năm 1990, ông Phong đổi đất cho bà Vũ Thị A.
Tháng 7/1993, UBND huyện Xuân Lộc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) số 00051/QSDĐ cho ông Hàn. Tháng 4/2004, gia đình bà A chặt phá hàng rào dâm bụt và xây nhà lấn chiếm đất của ông Hàn. Ông Hàn có đơn khiếu nại đến UBND huyện Xuân Lộc nhưng sự việc không được giải quyết. Do đó, ông Hàn đề nghị tòa án buộc gia đình bà A trả diện tích đất lấn chiếm 50m2. Tại biên bản lời khai ngày 17/3/2006, ông Hàn đề nghị tòa án đo đạc, nếu bà A lấn chiếm vào đất của ông bao nhiêu m2 thì yêu cầu bà A trả bấy nhiêu. Tại đơn khởi kiện ngày 12/7/2011, ông Hàn khởi kiện đòi gia đình bà A trả 90m2 đất.
Trong khi đó, bà Vũ Thị A trình bày năm 1990, gia đình bà đổi đất với ông Vũ Văn Phong, việc trao đổi có viết giấy tay và được UBND xã Xuân Phú chấp nhận. Ông Phong nhận của bà 3.000m2 đất rẫy cà phê, còn gia đình bà nhận của ông Phong căn nhà và miếng đất thổ cư có hàng rào dâm bụt bao quanh. Thửa đất này giáp đất của ông Hàn, diện tích đất này hiện gia đình bà chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Năm 2004, gia đình bà sửa chữa lại gian bếp thì phát sinh tranh chấp. Bà A khẳng định gian nhà cũ của ông Phong và hàng dâm bụt vẫn còn nguyên, không thay đổi trừ phần giữa có một đoạn không có hàng rào là do gia đình ông Hàn chặt nên không chấp nhận yêu cầu của ông Hàn do không lấn chiếm đất.
Vụ kiện được TAND huyện Xuân Lộc thụ lý ngày 6/11/2006. Tại bản án DSST số 88/2006/DS-ST ngày 21/9/2006 của TAND huyện Xuân Lộc (lần 1) tuyên xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hàn, công nhận phần hàng rào bông bụt và bờ tường nhà bà A tiếp giáp với đất ông Hàn theo sử dụng thực tế là ranh giới giữa đất ông Hàn và bà A. Ông Hàn trả bà A số tiền 190.000 đồng, còn bà A trả cho ông Hàn 9,5 triệu đồng.
Ngày 28/9/2006, ông Hàn kháng cáo yêu cầu bà A trả đất, không đồng ý nhận giá trị đất. Tại bản án DSPT số 306/2007/DS-PT ngày 25/10/2007 của TAND tỉnh Đồng Nai (lần 1) quyết định sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hàn. Bà A phải thanh toán cho ông Hàn là gần 20 triệu đồng. Bà A phải tháo dỡ hàng rào trả lại diện tích đất 25,9 m2 lấn chiếm cho ông Hàn. Ông Hàn và bà A có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh, đăng ký kê khai QSDĐ theo quy định.
Phần ranh ông Hàn khởi kiện bà A lấn qua đất của mình |
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Hàn và bà A đều có đơn khiếu nại đối với bản án DSPT nêu trên. Tại quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 817/2010/KN-DS ngày 21/10/2010 của TAND tối cao. Quyết định kháng nghị bản án DSPT số 306/2007/DS-PT ngày 25/10/2007 của TAND tỉnh Đồng Nai. Đề nghị Tòa Dân sự TANDTC xét xử giám đốc thẩm hủy bản án DSPT nêu trên và hủy bản án DSST số số 88/2006/DSST ngày 21/9/2006 của TAND huyện Xuân Lộc, giao hồ sơ cho TAND huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm lại. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 139/2011/DS-GĐT ngày 22/02/2011 của Tòa Dân sự TAND tối cao quyết định hủy bản án dân sự phúc thẩm số 306/2007/DS-PT ngày 25/10/2007 của TAND Đồng Nai và hủy bản án DSST số 88/2006/DSST ngày 21/9/2006 của TAND huyện Xuân Lộc, giao hổ sơ cho TAND huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm lại.
Tại bản án DSST số 33/2015/DSST ngày 06/11/2015 của TAND huyện Xuân Lộc (lần 2) tuyên xử bác toàn bộ yêu cầu của ông Hàn về việc đòi bà A tháo dỡ công trình trả cho ông diện tích 90m2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà A, hủy một phần quyết định số 408/QĐ.UBH ngày 12/6/1993 của UBND huyện Xuân Lộc cấp giấy chứng nhận QSDĐ số B 668163 và cấp đổi giấy chứng nhận QSDĐ AO 640787 ngày 04/6/2009 của hộ ông Hàn. Ngày 19/11/2015, ông Hàn có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, yêu cầu hủy án sơ thẩm nêu trên. Tại bản án DSPT số 135/2016/DS-PT ngày 11/5/2016 của TAND Đồng Nai (lần 2) quyết định chấp nhận một phần kháng cáo của ông Hàn, sửa bản án sơ thẩm số 33/2015/DS-PT ngày 06/11/2015 của TAND huyện Xuân Lộc về quan hệ pháp luật và án phí. Bác toàn bộ yêu cầu của ông Hàn về việc đòi lại tài sản là QSDĐ đối với bà A (yêu cầu tháo dỡ công trình trả cho ông Hàn diện tích đất 90 m2). Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà A, hủy một phần Quyết định số 408/QĐ.UBH ngày 12/6/1993 của UBND huyện Xuân Lộc cấp giấy chứng nhận QSD đất số B 668163 và cấp đổi giấy chứng nhận QSDĐ AO 540787 ngày 04/6/2009 của hộ ông Hàn.
Tuyên án thiếu khách quan
Theo Viện kiểm sát nhân tỉnh Đồng Nai, việc nhận định và quyết định của bán án sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án hai cấp tỉnh Đồng Nai nêu trên là không có cơ sở vững chắc, không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án, thu nhập chứng cứ chưa đầy đủ, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Bởi lẽ pháp luật về đất đai bảo hệ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người sử dụng đất được nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Diện tích đất tranh chấp qua 2 lần kết quả đo đạc 2006 – 2007 đều thể hiện nằm trong giấy chứng nhận QSDĐ do UBND huyện Xuân Lộc công nhận QSDĐ cho hộ ông Hàn từ năm 1993. Gia đình bà A sử dụng đất liền kề với thửa đất của ông Hàn đến nay chưa được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Về nguồn gốc đất bà A đang sử dụng do bà A đổi đất với ông Vũ Văn Phong vào năm 1990, trong giấy đổi đất với ông Phong hai bên không ghi diện tích đổi đất là bao nhiêu.
Tại Công văn số 55/UBND ngày 27/7/2015, UBND xã Xuân Phú xác nhận: “Qua tra cứu mục kê hiện xã đang quản lý thể hiện bà A đã đăng ký kê khai các thửa đất trên ngày 20/2/1993, có xác nhận của UBND xã ngày 20/2/1993 – kèm theo bản đồ photo đóng dấu sao lục” và theo bản đồ photo do UBND xã Xuân Phú cung cấp: Năm 1993 bà A kê khai 3 thửa đất bà đang sử dụng chỉ có tổng diện tích là 945m2. Khi phát sinh tranh chấp, ông Phong (người đổi đất cho bà A) xác nhận có 1 sào đổi cho bà A. Đồng thời, bản đồ hiện trạng khu đất số 1752/2007 do chi nhánh trung tâm kỹ thuật Địa chính – Nhà đất thị xã Long Khánh đo đạc ngày 20/9/2007 diện tích đất bà A sử dụng thực tế là 1.135 m2.
Như vậy, gia đình bà A thực tế sử dụng đất lớn hơn rất nhiều so với thời điểm năm 1993 bà đăng ký kê khai tại địa phương, kể cả sự xác nhận của ông Phong về diện tích đất ông Phong đổi cho bà A vào năm 1990 nên Bản án sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án hai cấp tỉnh Đồng Nai công nhận phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà A là không đảm bảo tính khách quan, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của hộ ông Hàn.
Cũng theo Viện KSND tỉnh Đồng Nai, mặt khác, theo tài liệu hồ sơ thể hiện ngày 10/7/1993, UBND huyện Xuân Lộc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Hàn được quyền sử dụng 932 m2. Hiện tại trên phần đất ranh giữa hai nhà thì đoạn đầu giáp quốc lộ và đoạn cuối vẫn còn hàng rào dâm bụt, căn nhà ông Phong làm vẫn nằm trong hàng rào về phía đất của bà A, chỉ có căn nhà anh Nguyễn Thăng Bình (con bà A) mới xây dựng thì phía ranh đất không còn hàng rào. Tuy hàng rào dâm bụt ông Hàn xác nhận là do ông trồng nhưng không thẳng hàng, bản đồ địa chính cũng thể hiện đất ông Hàn sử dụng có chiều dài giáp ranh với đất của bà A là đường gấp khúc.
Theo kết quả của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Xuân Lộc đo vẽ ngày 12/4/2006 thì diện tích đất thực tế của ông Hàn đang sử dụng là 841m2, gia đình bà A lấn chiếm đất của ông Hàn tại điểm C, D là 51,6 m2 (BL số 107); còn theo Bản đồ hiện trạng khu đất số 1752/2007 do chi nhánh trung tâm kỹ thuật Địa chính – Nhà đất thị xã Long Khánh đo đạc ngày 20/9/2007 thì diện tích đất thực tế ông Hàn đang sử dụng là 859m2, diện tích đất đang tranh chấp là 90m2.
Như vậy, cùng vị trí thửa đất đang tranh chấp nhưng bản đồ hiện trạng đo đạc của cơ quan chuyên môn hoàn toàn khác nhau, Tòa cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm không xác minh làm rõ và yêu cầu cơ quan chuyên môn giải trình về số liệu đo đạc sai lệch nêu trên, kết quả số liệu đo đạc của bản đồ hiện trạng là chính xác? Đã nhận định bà A sử dụng đất sau khi đổi với ông Phong không làm thay đổi ranh đất là hàng rào dâm bụt, căn nhà gỗ của ông Phong cất từ năm 1989 có trước khi lập bản đồ địa chính xã Xuân Phú. UBND huyện Xuân Lộc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Hàn là cấp đồng loạt dựa trên bản đồ địa chính, không kiểm tra đối soát thực địa tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Hàn, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà A, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Xuân Lộc cấp cho hộ ông Hàn và tuyên bà A có nghĩa vụ kê khai đăng ký QSDĐ này là không có cơ sở vững chắc, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.