Vụ kiện kéo dài vì “chờ luật”
Vụ án tranh chấp đòi nhà cho thuê giữa gia đình bà cụ với người thuê đến nay đã ngót 25 năm, kéo dài qua nhiều phiên xét xử.
Bị đơn được triệu tập 3 lần nhưng vắng mặt, phiên tòa vẫn diễn ra. Nguyên đơn là cụ bà Nguyễn Thị Nhàn (90 tuổi, ngụ phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm). Người đại diện ủy quyền là con trai bà Hoàng Anh Tuấn. Còn bị đơn là ông Dương Văn Mầu (đã chết năm 1998), nay đại diện là con trai Dương Văn Thục (SN 1964, ngụ tầng 1, nhà số 2 Hàng Điếu, phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm) cùng vợ và hai người con.
Ngôi nhà số 2 Hàng Điếu do cụ Nhàn và chị gái Nguyễn Thị Hay (SN 1921) mua chung từ năm 1954. Việc mua bán được chứng thực. Sau khi mua nhà do chưa có nhu cầu sử dụng nên chị em cụ Nhàn cho ông Dương Văn Mầu thuê tầng 1 ngôi nhà. Tầng 2 và 4,5m2 tầng 1, các cụ cho một gia đình khác thuê.
Cuối năm 1954, người chị di cư vào miền Nam nên em gái là người thu tiền thuê nhà. Năm 1991, hộ gia đình ở tầng 2 căn nhà chuyển đi, chỉ còn lại gia đình ông Mầu ở tầng 1. Một năm sau cụ Nhàn thông báo đòi lại căn nhà trên để sử dụng nhưng gia đình người thuê trọ không đồng ý trả nhà. Ông này chrằng trước đây thuê nhà của cụ Nhàn không có văn bản. Trước đây cụ Nhàn có ý định bán nhà cho mình nên ông không đồng ý trả lại nhà.
Mặc dù chủ nhà xuống nước đề nghị nhường cho một chỗ ở nơi khác song ông Mầu quyết ở lại ngôi nhà phố Hàng Điếu và yêu cầu mua lại tầng 1 căn nhà này. Ông lập luận cụ Nhàn chỉ có quyền sở hữu 1 nửa căn nhà, nửa còn lại thuộc về người chị gái. Lúc đó người chị đang sống ở nước ngoài nên cụ Nhàn không có quyền đòi nhà.
Ông Mầu còn có lời khai gia đình ông thuê nhà của chủ cũ trước khi căn nhà được bán cho chị em cụ Nhàn. Ông này nói cụ Nhàn sống ở tầng 2 nếu bán thì ông mua lại, còn tầng 1 thuộc phần người chị gái ở nước ngoài, khi nào người chị về nước ông sẽ trả lại nhà. Do vậy, bị đơn không đồng ý trả nhà theo yêu cầu của cụ Nhàn.
Trong bản án dân sự sơ thẩm ngày 5/4/1993, TAND TP.Hà Nội chấp nhận yêu cầu đòi nhà cho thuê tại tầng 1 nhà số 2 Hàng Điếu của cụ Nhàn. Đại diện gia đình nguyên đơn có thành ý biếu gia đình ông Mầu nhà ở số 28A phường Phúc Tân (quận Hoàn Kiếm). Phía gia đình cụ Nhàn cũng không lấy tiền thuê nhà, thậm chí sẵn sàng hoàn trả tiền sửa nhà và xây thêm tổng cộng 4 triệu đồng.
Tòa tuyên buộc gia đình bị đơn chuyển đến căn nhà ở Phúc Tân, trả lại nhà cho cụ Nhàn. Sau đó, phía bị đơn kháng cáo.
Sau nhiều phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm rồi đến giám đốc thẩm, vụ án vẫn không thể kết thúc. Tại quyết định tái thẩm số 29/2015/DS-TT ngày 23/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao quyết định hủy các bản án, quyết định trước đó và giao hồ sơ vụ án cho TAND TP.Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định.
Các cơ quan tố tụng giải thích vụ án kéo dài do gián đoạn một thời gian chờ các hướng dẫn thi hành luật có liên quan đến người nước ngoài.
Mệt mỏi đòi nhà
Phiên tòa lần này (ngày 3/4/2017), gia đình bị đơn được triệu tập nhưng vắng mặt. Trong đơn trình bày, phía bị đơn nghi ngờ giấy ủy quyền của người chị cho cụ Nhàn giải quyết vấn đề liên quan đến nhà đất số 2 Hàng Điếu là giả mạo.
Ông Thục là bị đơn “thế hệ thứ hai” còn cho rằng từ khi bà Hay di cư ra nước ngoài không có thư từ hay liên lạc với gia đình tại Việt Nam nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh.
Bị đơn trình bày theo nghị quyết nhà vắng chủ ra nước ngoài, nhà nước cho thuê. Do đó gia đình bà Nhàn không có quyền đòi nhà, đề nghị đình chỉ giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp đòi nhà cho thuê.
Con cháu người thuê nhà dựa vào bản án giám đốc thẩm ngày 30/4/1994 để bảo vệ quản điểm của mình. Họ nói quyết định giám đốc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm năm 1993, bác yêu cầu đòi nhà của cụ Nhàn với ông Mầu; đồng thời kiến nghị UBND TP.Hà Nội làm thủ tục quản lý diện tích nhà ông Mầu đang thuê của cụ Hay. Như thế gia đình bị đơn đang thuê nhà của nhà nước chứ không phải thuê của chị em cụ Nhàn.
Con trai cụ Nhàn đại diện nguyên đơn không đồng tình với những quan điểm của bị đơn như trên. Ông này nói: “Không lý nào người đi thuê lại được hưởng luôn căn nhà đang thuê. Phía bị đơn nói chúng tôi giả mạo giấy tờ là không đúng, xúc phạm bác tôi. Chúng tôi đề nghị giám định và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
Việc ông Mầu trình bày ở tại căn nhà số 2 Hàng Điếu từ năm 1945, nguyên đơn phản bác cho rằng đó là lời khai một chiều. Phía nguyên đơn khẳng định từ những phiên tòa năm 1991 đã có các nhân chứng chứng minh lời khai trên của ông Mầu không đúng.
Sau khi xem xét hồ sơ, HĐXX nhận thấy có căn cứ để xác định ngôi nhà số 2 Hàng Điếu thuộc quyền sở hữu của chị em cụ Nhàn là nhà sở hữu tư nhân hợp pháp.
Gia đình bị đơn cho rằng không thuê nhà của cụ Nhàn mà thuê của người chị, khi nào người này về sẽ trả. Tòa xét thấy người chị đang sống tại Canada từ năm 1975, đã có giấy xác nhận ý chí của mình cho cụ Nhàn quyền sở hữu ngôi nhà.
Còn việc ông Mầu muốn mua lại căn nhà không được sự đồng ý của cụ Nhàn nên không thể chấp nhận yêu cầu này. Năm 1998 ông Mầu chết, các con ông vẫn tiếp tục sống ở đây mà không chịu trả nhà cho cụ Nhàn. Điều này xâm phạm đến quyền sở hữu nhà của nguyên đơn.
HĐXX cũng xác nhận việc nguyên đơn tạo điều kiện cho gia đình bị đơn có chỗ ở ổn định bằng cách sẵn sàng cho thuê lại căn hộ ở khu tập thể Kim Liên. Phía nguyên đơn còn chấp nhận “miễn” luôn tiền cho thuê nhà từ năm 1992 đến nay.
Ngoài ra phía nguyên đơn còn tự nguyện hỗ trợ lại chi phí gia đình bị đơn đầu tư sửa nhà, gác xép đến nay trị giá 20 triệu đồng. Từ những căn cứ trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu đòi nhà của cụ Nhàn.