Chữ ký giả mạo trong bản di chúc
Vợ chồng cụ Bùi Khắc Lâm (qua đời năm 1998) và cụ Nguyễn Thị Thịnh (qua đời năm 2001) để lại di sản là nhà đất 61B Lò Sũ. Hai cụ có tổng cộng 11 con chung và riêng, trong đó có gia đình 3 người con là ông Dũng, ông Cường, ông Đức (vợ là Loan) sinh sống ổn định tại 61B Lò Sũ.
Năm 2008, con trai cả của hai cụ đã xuất trình di chúc đề ngày 18/9/1992 và cho rằng đây là di chúc của bố mẹ với nội dung cho ông toàn bộ nhà đất 61B Lò Sũ, yêu cầu Tòa chia di sản thừa kế; buộc gia đình ông Dũng, ông Cường, bà Loan chuyển đi nơi khác để trả nhà.
Trong khi đó, phía bị đơn là ông Dũng, ông Cường, bà Loan đều khẳng định bố mẹ không để lại di chúc; bản di chúc ngày 18/9/1992 là giả mạo vì bà cụ không biết chữ và thông tin nhân thân trong đó không đúng
Tuy nhiên, khi xét xử sơ thẩm (lần 1) năm 2012, TAND Hà Nội đã không tiến hành trưng cầu giám định chữ ký trong bản di chúc do ông Thành xuất trình.
Xét về hình thức, Tòa cho rằng bản di chúc trên có xác nhận của UBND phường Lý Thái Tổ (nguyên Phó Chủ tịch UBND phường xác nhận hai cụ đã ký di chúc). Một số con của hai cụ (như bà Chinh, bà Quý, bà Vinh…) đều xác nhận bố mẹ viết di chúc để lại nhà 61B Lò Sũ cho ông Thành là đúng sự thật.
Từ nhận định di chúc trên phù hợp về hình thức và nội dung, HĐXX sơ thẩm (lần 1) chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc 3 bị đơn phải chuyển khỏi 61B Lò Sũ để trả nhà cho anh trai.
Tại đơn kháng cáo cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, ông Dũng, ông Cường tiếp tục cho rằng di chúc trên là giả mạo. Trong quá trình thụ lý, Tòa phúc thẩm TANDTC (nay là TAND cấp cao) tại Hà Nội đã trưng cầu giám định chữ ký. Kết quả cho thấy chữ ký “Lâm” trong bản di chúc ngày 18/9/1992 với chữ ký đứng tên “Bùi Khắc Lâm” trên 3 mẫu tài liệu so sánh “không phải do cùng một người ký ra”.
Tuy đã có kết luận giám định như trên nhưng HĐXX phúc thẩm vẫn cho rằng “không có căn cứ chữ ký cụ Lâm là giả và cụ Thịnh không biết chữ”, tuyên y án sơ thẩm.
Đã hủy án, nhưng khi nào mới xử lại?
Hơn 4 năm sau, bản án sơ và phúc thẩm trên đã bị Hội đồng thẩm phán TANDTC tuyên hủy bởi Quyết định giám đốc thẩm số 02/2017/DS-GĐT. Quyết định này nêu rõ, chưa đủ cơ sở kết luận về chữ ký của cụ Lâm trong di chúc có đúng là chữ ký của cụ Lâm hay không?
Ngoài ra, ông Dũng, ông Cường đều khai mẹ không biết chữ nên không thể ký chữ “Thịnh” như trong di chúc. Ngoài ra, một số nhân chứng cũng có lời khai về việc cụ Thịnh không biết chữ. Còn bà Chinh thì lại xác nhận cụ Thịnh đã học qua lớp xóa mù chữ. Với lời khai đang có mâu thuẫn như trên, lẽ ra tòa phải thu thập tài liệu chứng cứ để làm rõ cụ Thịnh có biết chữ không và chữ ký của cụ (nếu có) để giám định.
Hơn nữa, bản di chúc ngày 18/9/1992 có ghi thay thế cho bản di chúc ngày 17/9/1992. Tuy nhiên, hai cấp tòa chưa thu thập bản di chúc ngày 17/9/1992, là thiếu sót trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ.
Việc hai cấp tòa chỉ căn cứ vào di chúc ngày 18/9/1992 để chấp nhận yêu cầu chia thừa kế theo di chúc đối với di sản; buộc 3 gia đình phải chuyển đi nơi khác để trả lại nhà là chưa đủ cơ sở.
Ngày 25/5/2017, TAND TP Hà Nội đã thụ lý lại vụ kiện thừa kế nêu trên. Tuy nhiên, đã hơn hai năm trôi qua nhưng tòa này vẫn chưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm chỉ là 4 tháng.
Trước việc chậm chễ nêu trên, bị đơn và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã liên tục có đơn phản ánh thẩm phán vi phạm tố tụng, làm ảnh hưởng lớn đến quyền lợi đương sự. Các bị đơn không có chỗ ở ổn định và mất nơi kinh doanh kiếm sống tại 61B Lò Sũ từ tháng 12/2014 (thời điểm bị cưỡng chế thi hành án) trong khi ông Thành được cho là thu hàng chục triệu/tháng từ việc cho thuê nhà đang tranh chấp.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan “phản cung” và tố ngược
Theo bản án sơ và phúc thẩm thì trong quá trình giải quyết vụ án, một số người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan như bà Chinh, bà Vinh (đều là con của cụ Lâm, cụ Thịnh và là chị ông Dũng) đều xác nhận bố mẹ viết di chúc để lại nhà 61B Lò Sũ cho ông Thành.
Tuy nhiên, sau các bị đơn bị cưỡng chế ra khỏi nhà, tháng 3/2015, bà Vinh, bà Chinh có “bản cam kết” phủ nhận lời khai trước đây, nói lại “bản di chúc đề ngày 18/9/1992 không phải là di chúc do bố mẹ để lại”.
Sau khi cho rằng mình đã bị ông Thành “lừa”, bà Vinh và bà Chinh “xin lỗi các em vì lòng tham, thật thà và sự ngu dốt đã để lại hậu quả nặng nề”.