30 năm, 3 vụ tham nhũng
Theo Phó Tổng Thanh tra Trần Đức Lượng, trong gần 30 năm thực hiện chính sách đổi mới, Việt Nam đã nhận được nguồn hỗ trợ ODA khoảng 80 tỷ USD, tuy nhiên trên thực tế những vụ việc tham nhũng, gian lận được phát hiện và xử lý trong thời gian qua chưa tương xứng với những đánh giá về mức độ rủi ro trong lĩnh vực này.
Cho đến nay, những vụ việc có tính điển hình liên quan tới các dự án ODA không nhiều, có thể kể tới vụ án tại Ban Quản lý các dự án (PMU18) thuộc Bộ Giao thông Vận tải từ năm 2005, vụ nhận hối lộ tại Dự án Đại lộ Đông - Tây (PCI) năm 2008 và gần đây nhất là nghi án hối lộ tại Dự án Đường sắt đô thị Hà Nội (JTC) hiện đang trong quá trình điều tra làm rõ.
“Điều cần lưu ý là trong cả 3 vụ việc điển hình nêu trên, những nghi vấn tham nhũng, sai phạm không phải do chủ đầu tư hay các cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý nguồn vốn ODA phát hiện mà do báo chí nước ngoài đưa tin (vụ việc PCI và JTC) hay vụ án PMU18 được cơ quan điều tra phát hiện từ một vụ án khác (cá độ bóng đá)”… - ông Lượng lưu ý.
Thông tin đưa ra tại Hội nghị cấp cao “Tăng cường quản trị thúc đẩy phát triển tại Việt Nam” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), WB tổ chức ngày hôm qua 20/1 cho thấy, Việt Nam đứng thứ hai trong danh sách khách hàng có khiếu nại trong danh mục đầu tư của WB tại Việt Nam. Ngành có khiếu nại nhiều nhất là giao thông.
Chuyên gia của WB chỉ ra những rủi ro mà Việt Nam cần phải đề phòng nhất, đó là gian lận hồ sơ dự thầu, thông đồng, sử dụng đại lý, tham nhũng và mâu thuẫn lợi ích. Những hành vi gian lận và tham nhũng có thể xuất hiện dưới nhiều dạng và có thể xảy ra trong giai đoạn đấu thầu, giai đoạn thực thi hợp đồng dự án.
“Văn phòng WB tại Việt Nam từ lâu đã quan ngại số lượng đơn khiếu nại và viện dẫn liên quan đến danh mục đầu tư tại Việt Nam. Chúng tôi đã đi tiên phong trong việc giữ cho các dự án của WB không có vấn đề tham nhũng” - ông Adu Gyamfi Abunyewa, chuyên gia đấu thầu cao cấp của WB phát biểu.
ODA không phải “tiền cho không, biếu không”
Chưa có một tổng kết đánh giá về các gian lận, tham nhũng thông qua giám sát, thanh tra, kiểm toán trong quá trình thực hiện các dự án ODA, tuy nhiên, từ báo cáo kết quả hoạt động 10 năm của Thanh tra Bộ KH&ĐT - cơ quan đầu mối của Chính phủ về quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA có thể thấy việc phát hiện gian lận, tham nhũng trong lĩnh vực này vẫn là thách thức.
Ngoài sự phức tạp về kỹ thuật và quy mô vốn lớn là những đặc điểm chung của các dự án đầu tư hạ tầng, một trong những nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động chống gian lận, tham nhũng tại các dự án ODA được chỉ ra là hạn chế về nhận thức.
Theo Phó Tổng Thanh tra Trần Đức Lượng, trên thực tế, phần lớn ODA là tiền đi vay (có yếu tố nước ngoài) mà Việt Nam phải hoàn trả trong tương lai, Chính phủ cũng đã quy định chính sách quản lý ODA như đối với nguồn tiền từ ngân sách nhà nước (NSNN), tuy nhiên trên thực tế còn tâm lý coi tất cả các khoản ODA như viện trợ không hoàn lại, vì thế các địa phương, các bộ, ngành thường đặt mục tiêu được phê duyệt ODA là ưu tiên cao nhất mà chưa chú trọng đến yêu cầu phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Từ nhận thức đó dẫn tới quan điểm chỉ đạo của một số người đứng đầu địa phương hay bộ, ngành trong đấu tranh chống gian lận, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý sử dụng ODA, đó có thể là tâm lý hữu khuynh, lo ngại rằng khi những sai phạm bị phát hiện sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ ngoại giao và chính sách hợp tác phát triển ở cấp quốc gia giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ.
Bên cạnh đó, thông lệ các hiệp định cung cấp ODA đều quy định rằng, khi các hành vi gian lận, tham nhũng được phát hiện thì số tiền sai phạm bị thu hồi sẽ được hoàn trả cho nhà tài trợ mà không thu về NSNN. “Những nguyên nhân này có thể tác động tới tâm lý của người đứng đầu cơ quan chức năng quản lý khi chỉ đạo thực hiện các hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán cũng như quan điểm xử lý sai phạm tại các dự án sử dụng ODA…”- ông Lượng nhận định.
Theo đề xuất của Thanh tra Chính phủ, bên cạnh việc hoàn thiện chính sách, thể chế, tăng cường hiệu lực thực tế của các quy định pháp luật liên quan đến quản lý, sử dụng ODA, cần thay đổi nhận thức về ODA cả ở cấp bộ, ngành và các địa phương, phải thực sự thay đổi tâm lý coi ODA là “nguồn viện trợ không hoàn lại” hoặc chí ít thì “đời mình chưa phải lo trả nợ” dẫn đến tình trạng “lobby ODA” để được triển khai các dự án không thực sự cần thiết hoặc buông lỏng công tác giám sát, kiểm tra trong triển khai các dự án…